Trang chủ    Bài nổi bật    Vận dụng khoa học tổ chức trong kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị ở nước ta
Thứ hai, 28 Tháng 5 2018 11:12
1740 Lượt xem

Vận dụng khoa học tổ chức trong kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị ở nước ta

(LLCT) - Nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức nói chung và khoa học tổ chức, cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả có ý nghĩa to lớn. Việc nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay cần chú ý một số nội dung: sứ mệnh củ

Đại hội XII của Đảng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có hai nhiệm vụ về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Để thực hiện những nhiệm vụ đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể hoá thành 3 đề án trong Chương trình làm việc toàn khóa để trình các Hội nghị Trung ương khóa XII. Một trong ba đề án đó là “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”. Đề án này đã được trình và thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII, cụ thể hóa với Nghị quyết số 18 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” ngày 25-10-2017.

Đảng chỉ rõ những khuyết điểm về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay, như: mô hình tổng thể; nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện; công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế; cơ chế, chính sách; công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát... Nguyên nhân của tình trạng này là: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được coi trọng và chưa được tiến hành một cách căn cơ, bài bản, thiết thực; công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời”.

Hội nghị Trung ương 9 khóa X năm 2009 của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ” nhưng đến nay vẫn chưa chuyển biến. Khoa học tổ chức vẫn chưa thực sự được coi trọng và chưa đóng góp đáng kể vào công tác kiện toàn tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị.

Điều đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức nói chung và khoa học tổ chức, cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Việc nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay cần chú ý một số nội dung sau:

Thứ nhất, về sứ mệnh của tổ chức

Mỗi tổ chức đều hướng tới thực hiện một chức năng xã hội nhất định. Không có mục tiêu, sứ mệnh, mọi tổ chức đều không có lý do tồn tại. Tổ chức là do con người đặt ra nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, đáp ứng lợi ích thiết thực cho con người. Đó là yếu tố liên kết các thành viên của tổ chức và là lý do ra đời, tồn tại của  mỗi tổ chức.

Xác định mục tiêu liên tục của tổ chức là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người lãnh đạo phải tổng kết lý luận và thực tiễn và dự báo tương lai. Đồng thời, phải hiểu sâu sắc mục tiêu của hệ thống để xác định mục tiêu của tổ chức mình cho phù hợp, vừa sức và phải lựa chọn được mục tiêu ưu tiên.

Tuân thủ quy luật này đòi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức. Để xác định hiệu quả của tổ chức, phải xác định được ba yếu tố: yếu tố đầu vào; yếu tố quản lý vận hành và yếu tố kết quả của tổ chức. Sự chênh lệch giữa yếu tố kết quả và yếu tố đầu vào là hiệu quả.Mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả là quy luật khách quan quyết địnhsự tồn tạicủa tổ chức, quy địnhcấu trúc và phương thức hoạt động của tổ chức.

Bất kỳ tổ chức nào cũng tồn tại và phát triển trong một không gian và thời gian xác định, trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định. Nhờ có yếu tố không gian, thời gian mà người ta xác định được quy mô, tính chất phát triển của tổ chức, cũng như quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức đối với xã hội. Mặt khác, nhờ có yếu tố không gian, thời gian mà xác định được tính tương thích hay không tương thích của một tổ chức xã hội nào đó với các điều kiện kinh tế - xã hội mà tổ chức đó lệ thuộc vào. Như vậy, tổ chức nào cũng có quá trình ra đời, phát triển và tiêu vong hay gọi là “vòng đời của tổ chức”. Tính ổn định và phát triển là yêu cầu tất yếu để tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ. Một tổ chức mà không ổn định và phát triển thì hoạt động không có hiệu quả. Mặt khác, sau khi tổ chức đã hình thành và hoạt động ổn định thì luôn xuất hiện tính ỳ, xu hướng bảo thủ, không dễ thay đổi.

Tuân thủ quy luậtnày đòi hỏi việc xây dựng, điều khiển tổ chức phải bảo đảm tính ổn định, tránh vội vàng, hấp tấp, thay đổi tổ chức khi chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề và điều kiện chưa chín muồi. Đồng thời, phải chú ý khắc phục xu hướng bảo thủ, trì trệ, khép kín của tổ chức.

Hoàn cảnh khách quan luôn biến đổi, nhiệm vụ của tổ chức có sự vận động phát triển đòi hỏi tổ chức phải đổi mới, hoàn thiện là lẽ tự nhiên. Vì vậy, việc củng cố, kiện toàn tổ chức là biện pháp được vận dụng phổ biến trong thực tiễn. Bất kỳ một tổ chức nào, sau một thời gian hoạt động đều bộc lộ những điểm mạnh, điểm yếu, những mặt hợp lý và bất hợp lý, đòi hỏi phải được củng cố, kiện toàn để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ. Đó là: bố trí sắp xếp lại các bộ phận, điều chỉnh nhân sự, đổi mới trang thiết bị, phương tiện làm việc; thay đổi phương thức hoạt động, đề xuất các quy định mới, bổ sung quy định cũ hay chuyển đổi tính chất, nội dung hoạt động, bổ sung nhiệm vụ mới cho tổ chức.

Ví dụ, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Mặt trận Tổ quốccó sứ mệnh đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước cho dù có lợi ích khác nhau nhưng cùng chung ý chí giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng trong thời bình, hội nhập, nhất là trong chế độ một đảng cầm quyền, vai trò của Mặt trận Tổ quốc có sự thay đổi. Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế  - xã hội của mọi giai cấp, tầng lớp và đoàn kết các dân tộc, tôn giáo còn có vai trò quan trọng và cần thiết nữa là phản biện các chính sách đối với Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Các ban chỉ đạo Trung ươngđược lập ra trong thời điểm tình hình an ninh trật tự những vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ diễn biến phức tạp, kinh tế, xã hội chậm phát triển; hệ thống chính trị cấp cơ sở quan liêu, yếu kém; công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức chính trị thiếu hiệu quả; các thủ đoạn tuyên truyền kích động của các thế lực thù địch... Khi đã hoàn thành sứ mệnh, việc chấm dứt hoạt động và  chuyển giao nhiệm vụ còn lại (nếu có) cho chính quyền địa phương là tất yếu.

Ngay cả đảng đoàn, ban cán sự đảngtrong điều kiện các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội còn phức tạp, đảng viên còn ít, nhiều nhiệm vụ của cấp trên cần phải triển khai trực tiếp qua cơ quan lãnh đạo là cần thiết và việc thành lập tổ chức đó không thông qua bầu cử dân chủ. Ngày nay, với đa số đảng viên trong các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị  - xã hội thì có thể tính đến việc chuyển giao chức năng lãnh đạo cho cấp ủy cùng cấp để tránh sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Đặc biệt là việc nhất thể hóa chức danh lãnh đạo đảng với chính quyền, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước trở nên phổ biến thì có thể áp dụng thực hiện nguyên tắc một đơn vị, cơ quan, tổ chức chỉ có một cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, về bộ máy của tổ chức

Trong bất kỳ một tổ chức nào, các bộ phận cấu thành tổ chức đều có mối liên hệ chặt chẽ, hình thành các tuyến quan hệ, quy định sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Bộ máy của tổ chức là cách bố trí, sắp xếp các bộ phận nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Đó chính là kết cấu bên trong cùng với quan hệ của các bộ phận củatổ chức. Bộ máycủa tổ chức do chức năng, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của tổ chức quy định. V.I.Lênin khẳng định: “Cơ cấu của bất cứ một cơ quan nào cũng do nội dung hoạt động của cơ quan đó quyết định một cách tự nhiên và tất nhiên”(1).

Khi sắp xếp các bộ phận của tổ chức cần chú ý xem xét vị trí, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận trong tổ chức. Có bộ phận giữ vai trò đầu não, chỉ huy, quản lý; có bộ phận giữ vai trò bị quản lý, bị lãnh đạo; có bộ phận giữ vai trò tham mưu, giúp việc; có bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra các hoạt động của tổ chức... Thậm chí, trong mối quan hệ này, bộ phận ấy giữ vai trò quản lý, nhưng trong mối quan hệ khác, lại giữ vai trò bị quản lý. Vị trí, vai trò, chức năng của bộ phận nào đó trong tổ chức sẽ quyết định tính chất quan hệ của bộ phận ấy với bộ phận khác. Song, trong bất kỳ cơ cấu tổ chức nào, mỗi bộ phận vừa hoạt động theo sự phân công của trung tâm chỉ huy, quản lý, điều khiển, đồng thời phải phối hợp hoạt động với các bộ phận khác trong cơ cấu tổ chức để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hoàn cảnh, điều kiện thay đổi thì vai trò vị trí của từng bộ phận trong tổ chức cũng thay đổi theo nên cần xác định mối quan hệ giữa các bộ phận, các yếu tố bên trong cơ cấu tổ chức để kịp thời điều chỉnh.

Đối với hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, sau nhiều năm vận hành đã xuất hiện một số bất cập: tổ chức bộ máy hệ thống chính trị còn kồng kềnh, còn nhiều bộ phận phục vụ, nhiều cấp phó; chức năng, nhiệm vụ của nhiều tổ chức còn chồng chéo, có việc chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào chịu trách nhiệm chính. Khi cơ chế quản lý thay đổi, yêu cầu của thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN, hội nhập quốc tế phải đổi mới, cải cách bộ máy theo hướng gọn nhẹ, loại bỏ các tổ chức không cần thiết, loại bỏ cấp trung gian, hạn chế đến mức tối thiểu cấp phó để tránh trùng lắp, chia cắt, manh mún. Đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng, các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần hướng về cơ sở, khắc phục tình trạng hành chính hóa, xa dân, phô trương hình thức, bảo đảm tính thiết thực và hoạt động có hiệu quả.

Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay phải dựa trên nguyên tắc: một cơ quan, một cá nhân có thể làm nhiều việc nhưng một việc chỉ do một cơ quan, một cá nhân làm để dễ quy trách nhiệm. Hay có thể xem xét thêm nguyên tắc: một cơ quan chỉ chịu sự chủ quản của một cơ quan lãnh đạo quản lý cấp trên. Các cơ quan phối hợp, thậm chí hiệp thương trên một số khâu hay hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ.

Mỗi một tổ chức đều phải xác định đúng, đủ số người hoạt động trong từng bộ phận cấu thành tổ chức trên cơ sở xác định rõ chức việc, đồng thời giao nhiệm vụ rõ ràng, giao quyền và đòi hỏi trách nhiệm tương xứng với quyền được giao cho các thành viên của tổ chức. Cơ cấu tổ chức phải tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, xử lý thông tin giữa các bộ phận trong tổ chức. Thông tin phải được luân chuyển, phản hồi và thông suốt từ người lãnh đạo, quản lý đến nhân viên và ngược lại.

Thứ ba, về cơ chế hoạt động

Cơ chế hoạt động của tổ chức có thể được hiểu là chế độ vận hành của các bộ phận trong cơ cấu tổ chức. Chế độ này là những nguyên tắc, những quy định bắt buộc tất cả các bộ phận, các yếu tố của tổ chức phải tự giác phục tùng. Những nguyên tắc, những quy định đó phụ thuộc vào yêu cầu, sứ mệnh của tổ chức.

Chế độ hoạt động của tổ chức càng rõ ràng, chặt chẽ bao nhiêu thì tổ chức hoạt động càng có ít sai sót bấy nhiêu, cán bộ trong bộ máy tổ chức không ngừng trưởng thành và phát triển. Ngược lại, chế độ hoạt động không rõ ràng, không hợp lý thì tổ chức sẽ chồng chéo, kém hiệu quả, khó quy kết trách nhiệm và thậm chí có thể làm cho tổ chức tan rã.

Cơ chế hoạt động và các thủ tục giải quyết công việc của tổ chức thực chất là sự cam kết của các thành viên bằng các quy định đặt ra, bảo đảm cho toàn bộ tổ chức hoạt động hiệu quả, thực hiện mục tiêu. Những quy định này có thể là do cơ quan cấp trên định ra, nhưng cũng bao gồm cả những quy định có từ khi thiết kế tổ chức. Những quy định hoạt động của tổ chức tác động không chỉ trong nội bộ tổ chức, đến các bộ phận và nhân viên cấu thành tổ chức mà còn tác động đến các đối tượng bên ngoài tổ chức, như: đến công dân, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội... Nếu những quy định về cơ chế hoạt động, về thủ tục mang tính hành chính của tổ chức không đúng, không hợp lý thì có thể làm rối loạn tổ chức, khó kiểm soát và hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.

Các quy định của tổ chức được thực hiện đều phải giao trách nhiệm cho một người hay một nhóm người (có 1 người chịu trách nhiệm chính) điều hành, chỉ huy để duy trì sự vận hành và tạo nên sức sống của tổ chức. Người được giao quyền chỉ huy, điều hành phải có thẩm quyền tương ứng với vị trí. Người giữ thẩm quyền được hưởng một chế độ thuận lợi đểchỉ huy, được cấp dưới phục tùngvì họcó thể sử dụng chế tài được trao (phê bình, cảnh cáo, thuyên chuyển, sa thải). Nếu người giữ thẩm quyền vượt quá quyền hạn sẽ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, lộng quyền, lạm quyền. Quyền cưỡng chế áp dụng không tốt có thể dẫn đến những kết quả tai hại,như:chỉ phục tùng bên ngoài, xuất hiện người xu nịnh, chống đối ngầm...Do đó, để có uy tínvàảnh hưởng phi chính thức, người lãnh đạo phải tạo nên độ tin cậy của cấp dưới đối với mình về phẩm chất chính trị, trí tuệ, chuyên môn, năng lực và đạo đức.

Trong hệ thống quản lý, sự phân công trong hệ thống đồng cấp càng rõ ràng thì hiệu quả quản lý càng cao. Phân công và quy định rõ quyền hạn,trách nhiệm của các cấp trong hệ thống còn cần thiết hơn.Điều này sẽ quyết định hệ thống hoạt động bình thường hay rối loạn. Nếu không quy định rõ sẽ xảy ra hiện tượng cấp dưới lạm quyền, cấp trên bao biện. Trong hệ thống, khi xảy ra hiện tượng rối loạn chức năng thì phần lớn là do hiện tượng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, người ra quyết định lại đồng thời là người thực hiện quyết định. Để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện không để người lãnh đạo hệ thống lại kiêm lãnh đạo tổ chức cấu thành hoặc điều khiển (dù không chính thức) bộ phận cấu thành hay nhânviên trong tổ chức.

Khi đã phân cấp về mặt tổ chức thì cũng cần phân quyền. Nếu phân cấp mà không phân quyền thì việc phân cấp không có ý nghĩa thực tiễn. Quyền hạn phải gắn với trách nhiệm tương xứng và cụ thể. Chỉ có trách nhiệm của những cá nhân mới có ý nghĩa thực tiễn, còn trách nhiệm của tập thể là trách nhiệm trừu tượng, phải được quy trách nhiệm đó cho từng người trong tập thể.

Thứ tư, về con người trong tổ chức

Con người là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của tổ chức. Mỗi thành viên  là đơn vị nhỏ nhất cấu thành tổ chức. Tổ chức mạnh thì từng thành viên của tổ chức đó được giáo dục, bồi dưỡng, phát huy hết khả năng của mình và tạo ra sức mạnh của tổ chức. Ngược lại, từng người mạnh làm cho tổ chức mạnh. Suy cho cùng, chính con người - thành viên tổ chức sẽ quyết định chất lượng, xu hướng phát triển của tổ chức. Các thành viên trong cơ cấu tổ chức phải là những người có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Các bộ phận khác nhau là một hoặc một nhóm người được bố trí vào cơ cấu chính thức của tổ chức, hoặc tham gia hình thành cơ cấu phi chính thức của tổ chức.

Để tổ chức hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải sử dụng hợp lý và phát triển nguồn nhân lực. Bao gồm: đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, nhân viên, trang bị, cập nhật những tri thức và kinh nghiệm phù hợp với công việc họ đang làm và sẽ làm; sắp xếp, bố trí sử dụng cán bộ phù hợp với khả năng của họ; định mức lao động cho cán bộ, nhân viên; kịp thời động viên khen thưởng thành tích công tác cũng như cảnh báo, ngăn chặn những khuynh hướng tiêu cực; tạo không khí làm việc thân thiện, quan hệ lành mạnh và có tính xây dựng, hình thành văn hóa của tổ chức.

Trong bất kỳ tổ chức nào, người lãnh đạo, quản lý đều có xu hướng in dấu ấn sâu đậm lên tổ chức. Họ là người chịu trách nhiệm trước cấp trên về hoạt động của tổ chức và chịu trách nhiệm trước cấp dưới về đời sống và sự tiến bộ của họ.

Các thành viên phải là những người có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm; có phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống... mới có thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của tổ chức. Ngoài ra, họ còn phải có tinh thần đoàn kết, hợp tác xây dựng tổ chức của mình. Nếu các thành viên của tổ chức thành tâm, thiện ý, có phẩm chất và năng lực đảm nhiệm vị trí công tác được giao sẽ làm cho tổ chức không ngừng phát triển lớn mạnh.

Việc chăm lo đào tạo bồi dưỡng con người là đầu tư cho phát triển. Chính sách đầu tư cho con người đúng đắn, tự nó là nguồn động viên tinh thần to lớn cho toàn thể cán bộ nhân viên hoạt động trong cơ cấu tổ chức.Do vậy, đây làcơ sở để bảo đảm cho tổ chức hoạt động ngày càng có hiệu quả cao.

Thứ năm, về cơ sở vật chất của tổ chức

Các điều kiện vật chất được xem là một yếu tố cấu thành tổ chức. Điều kiện vật chất theo nghĩa rộng,bao gồm: các phương tiện vật chất, kỹ thuật, điều kiện kinh tế, điều kiện chính trị và các điều kiện khác... Theo nghĩa hẹp, bao gồm: tài chính, phương tiện, công cụ, thiết bị kỹ thuật, văn phòng, trụ sở làm việc... Điều kiện vật chất không phải là yếu tố quyết định sự trưởng thành và phát triển của tổ chức, nhưng là yếu tố không thể thiếu để tổ chức hoạt động có hiệu quả.Bởi vậy, mỗi khi xem xét thành lập, sáp nhập hoặc giải thể một tổ chức nào đó phải biết rõ ràng, chính xác những điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ tổ chức cần phải làm. Tổ chức không thể hoạt động bình thường nếu thiếu các điều kiện vật chất tối thiểu. Đầu tư cơ sở vật chất cho tổ chức là đầu tư điều kiện khách quan tất yếu để tổ chức thực hiện mục tiêu của nó. Tuy vậy, có thể tiết kiệm được nguồn tài chính đáng kể nhờ việc sắp xếp trụ sở làm việc hợp lý, sáp nhập tổ chức tương đồng về chức năng, nhiệm vụ, thực hiện cơ chế “một nhà hai cửa”, văn phòng phục vụ chung...

Thứ sáu, về kiểm tra, giám sát

Về mục đích tính chất hoạt động của bộ phận thanh tra, kiểm sát cũng giống như bộ phận kiểm tra, tuy nhiên, do chức năng hoạt động của các tổ chức khác nhau nên hình thức hoạt động của bộ phận thanh tra, kiểm sát khác với bộ phận kiểm tra.

Có thế xác định được 2 loại hình kiểm tra, giám sát: kiểm tra, giám sát của chủ thể lãnh đạo, phục vụ cho nhiệm vụ quản lý của chủ thể lãnh đạo và kiểm tra giám sát của cơ quan cấp trên hoặc ngang cấp để kiểm tra, giám sát ngay chủ thể lãnh đạo. Nói cách khác, chủ thể lãnh đạo cùng kiểm tra giám sát và cũng chịu sự kiểm tra, giám sát. Việc thường xuyên kiểm tra, giám sátkhông chỉ nhằm đôn đốc, nhắc nhở, cóchế tài xử lý tập thể, cá nhân không làm, làm không tốt, đồng thời còn phải phát hiện ra những nhân tố tích cực, kịp thời động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân làm tốt.

Công tác tổ chức bộ máy hiện nay, không chỉ quan tâm hoàn thiện tổ chức, bộ máy kiểm tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo của chủ thể, mặt khác phải xây dựng cơ quan kiểm tra, giám sát độc lập cùng cấp và cơ quan kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý cấp trên. Để kiểm tra, giám sát có hiệu lực và hiệu quả cần có các quy định đầy đủ, chặt chẽ và thực hiện nghiêm, như không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế...

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2 -2018

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr.127.

 

PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn

 Viện Xây dựng Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền