Trang chủ    Bài nổi bật    Nhận diện và phòng ngừa những tác động tiêu cực của phân hóa giàu - nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thứ ba, 14 Tháng 6 2022 21:30
5638 Lượt xem

Nhận diện và phòng ngừa những tác động tiêu cực của phân hóa giàu - nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

(LLCT) - Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới cho thấy, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, đất nước ta đang phải đối mặt với sự biến đổi ngày càng phức tạp của tình trạng phân hóa giàu - nghèo cùng những hệ lụy tiêu cực của nó. Phân hóa giàu - nghèo đã và đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất, trực tiếp nhất đến sự ổn định, bền vững của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Việc nhận diện những tác động tiêu cực của tình trạng phân hóa giàu - nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa, khắc phục đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay. 

Phân hóa giàu - nghèo đã và đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất, trực tiếp nhất đến sự ổn định, bền vững của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Ảnh: vov.vn

1. Tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc 

Một là, phân hóa giàu - nghèo làm nảy sinh những nhận thức sai lệch, gây suy giảm tình cảm và niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Cơ sở căn bản nhất quy định tính chất của các quan hệ xã hội là từ việc giải quyết vấn đề lợi ích. Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích”(1). Theo đó, sự thống nhất, chia sẻ lợi ích là cơ sở của việc liên minh, liên kết các bộ phận khác nhau trong xã hội. Ngược lại, sự mâu thuẫn, đối lập về lợi ích là căn nguyên của mâu thuẫn, đối kháng xã hội. Vì vậy, V.I.Lênin chỉ rõ, cần phải “tìm nguồn gốc của những hiện tượng xã hội ở trong những quan hệ sản xuất, và phải quy những hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định”(2).

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được hình thành, hun đúc một cách tự nhiên do ý thức chung của cộng đồng về tính tất yếu phải liên minh, liên kết nhằm chinh phục tự nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm để sinh tồn và phát triển. Trên tiến trình dựng nước và giữ nước đầy gian nan của dân tộc ta, tinh thần đoàn kết đã trở thành thứ vũ khí lợi hại nhất, thành nguồn sức mạnh to lớn nhất, giúp cho dân tộc vượt qua những thử thách ngặt nghèo trước cả thiên tai và địch họa. Sự gắn kết sinh mệnh trong quá trình phát triển chính là sự thống nhất lợi ích căn bản nhất đưa đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.

Kể từ khi có Đảng lãnh đạo, con đường phát triển của đất nước ta đã có một bước ngoặt lớn với mục tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết của dân tộc ta đã được tiếp nối, bồi đắp và không ngừng phát triển. Sự thống nhất lợi ích của dân tộc không chỉ là cùng nhau sinh tồn, cùng nhau vượt qua thử thách, mà còn được mở rộng thành cùng nhau vươn tới những giá trị của CNXH, đó là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm, và có nhà ở sạch sẽ”(3); xã hội XHCN là “không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”(4).

Chính những giá trị cao đẹp của CNXH đã nâng sự thống nhất nhận thức về lợi ích của toàn dân tộc ta lên một tầm cao mới vững chắc hơn. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN, là một khối đại đoàn kết có sự phát triển vượt trội về chất so với chính nó trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ, những giá trị của CNXH vẫn chưa có đủ tiền đề để bộc lộ một cách đầy đủ. Cùng với đó, tính phức tạp và gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ làm cho những giá trị này luôn nằm giữa ranh giới chông chênh giữa còn và mất, giữa dân chủ và phản dân chủ, giữa công bằng và bất công, giữa văn minh, tiến bộ và lạc hậu, phản tiến bộ. Điều đó phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, của công cuộc xây dựng CNXH. Nhận thức của các tầng lớp nhân dân về sự thống nhất lợi ích với các giá trị của CNXH mà dân tộc đang theo đuổi vì thế cũng chưa ở trạng thái ổn định. Sự tin tưởng hay hoài nghi của nhân dân vẫn luôn chịu sự tác động, chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có sự phân hóa giàu - nghèo.

Ở nước ta hiện nay, tình trạng phân hóa giàu - nghèo đang diễn ra khá phức tạp, giữa các nhóm người trong xã hội và giữa các vùng miền, khoảng cách phân hóa lớn và có xu hướng tăng nhanh. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Chênh lệch giàu - nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai”(5); “khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn”(6); “Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng”(7). Trên thực tế, từ năm 2015 đến năm 2020, mức độ chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm 20% dân cư có thu nhập cao nhất so với nhóm 20% dân cư có thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành luôn ở ngưỡng xấp xỉ 10 lần. Cụ thể: năm 2015 là 9,7 lần; năm 2016 là 9,8 lần; năm 2017 là 9,8 lần; năm 2018 là 10 lần; năm 2019 là 10,2 lần; năm 2020 là 8,7 lần(8). Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (hệ số GINI) ở nước ta từ năm 2015 đến 2020 cũng luôn ở mức trên dưới 0,4 - mức chênh lệch được coi là “nguy hiểm”. Cụ thể: hệ số GINI ở nước ta năm 2015 là 0,424; năm 2016 là 0,430; năm 2017 là 0,431; năm 2018 là 0,425; năm 2019 là 0,423; năm 2020 là 0,375(9).

Phân hóa giàu - nghèo là yếu tố làm trầm trọng hơn những bất bình đẳng xã hội. Sự chênh lệch về tài sản, thu nhập giữa các bộ phận dân cư kéo theo sự phân hóa về vị thế, ảnh hưởng xã hội, về tiếp cận với các cơ hội phát triển, thụ hưởng các điều kiện vật chất và tinh thần. Điều đó đi ngược lại với những giá trị của CNXH; khiến cho một bộ phận người dân, đặc biệt là người nghèo nảy sinh nhận thức sai lầm về mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoài nghi các giá trị cao đẹp của chế độ CNXH, hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, phân hóa giàu - nghèo làm cho chủ nghĩa cá nhân và lối sống cơ hội, thực dụng ngày càng phát triển, phá vỡ sự gắn kết giữa các tầng lớp nhân dân

Tình trạng chênh lệch, bất bình đẳng về tài sản, thu nhập sẽ dẫn đến sự phân hóa xã hội. Một bộ phận người giàu, do sự dư thừa về điều kiện vật chất, có thể rơi vào lối sống xa hoa, hưởng thụ, thậm chí trụy lạc, thờ ơ, lãnh cảm với xã hội, coi thường, kỳ thị người nghèo, người yếu thế. Trong khi đó, bộ phận người nghèo trong xã hội, do sự thua thiệt về nhiều mặt, dễ nảy sinh tâm lý ấm ức, bất mãn, thiếu thiện cảm, thậm chí căm ghét người giàu. Họ có thể cho rằng sự thua thiệt, bất công mà mình phải chịu là do người giàu trong xã hội gây ra. Những diễn biến tâm lý trái ngược ấy trong các bộ phận xã hội làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phân hóa giàu - nghèo, nhìn từ khía cạnh tích cực, sẽ tạo ra động lực thúc đẩy mỗi người dân nỗ lực phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, nó là “mảnh đất vàng” cho sự nảy sinh của chủ nghĩa cá nhân và lối sống thực dụng. Phân hóa giàu - nghèo dễ đẩy con người vào trạng thái tâm lý muốn làm giàu bằng mọi giá. Dưới tác động của các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường, thang giá trị của con người được đo đếm bằng sự “giàu có vật chất”, lối sống của họ bị dồn vào một khuôn mẫu hàng hoá - tiền tệ. Vật chất chi phối đến các mối quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội; lấy lợi ích cá nhân làm nguyên tắc sống, không cần quan tâm đến lợi ích tập thể, cộng đồng. Xã hội có sự phân hóa giàu - nghèo thường làm mất đi lòng nhân ái; làm cho con người mất đi sự cảm thông, chia sẻ và đồng cảm với những khó khăn, hoạn nạn của đồng loại; đồng thời, không quan tâm đến vận mệnh đất nước, đến sự phát triển và tiến bộ xã hội; không đấu tranh bảo vệ lợi ích chung, phá hoại tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(10). Điều đó khiến cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc mất đi những nền tảng cơ bản để duy trì và phát triển.

Tâm lý muốn làm giàu bằng mọi giá là cơ sở để nảy sinh các hoạt động kinh tế bất hợp pháp. Một bộ phận xã hội, do muốn giàu nhanh mà không phải lao động đã tìm đến các hoạt động kinh tế phi pháp như buôn lậu, gian lận thương mại, lừa đảo… Một bộ phận cán bộ, quan chức tìm cách trục lợi từ ngân sách nhà nước, tham nhũng… Điều đó làm trầm trọng thêm sự chia rẽ, bất mãn trong xã hội. 

Ba là, phân hóa giàu - nghèo đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Ở nước ta, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy lý tưởng, mục tiêu cách mạng của Đảng làm mục tiêu chung cho khối đại đoàn kết. Đảng duy trì, xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ thông qua việc tuyên truyền, vận động, giáo dục chính trị tư tưởng đến các tầng lớp nhân dân mà còn thông qua việc hình thành và phát triển các tổ chức, thiết chế gắn kết các tầng lớp xã hội, gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong bối cảnh phân hóa giàu - nghèo gia tăng, hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức này trong tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ không tránh khỏi khó khăn, thách thức.

Đối với Đảng, Nhà nước, phân hóa giàu - nghèo đặt ra hàng loạt vấn đề mới, phức tạp như: vấn đề lòng tin của nhân dân đối với năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trong điều tiết nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội; khả năng hiện thực hóa các mục tiêu công bằng, bình đẳng, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước; nguy cơ bất bình đẳng giữa các tầng lớp… Các vấn đề đó không hoàn toàn chỉ do tình trạng phân hóa giàu -nghèo gây ra, nhưng nó là một trong những tác nhân chủ đạo.

Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, phân hóa giàu -nghèo gây chia rẽ về nhận thức, tư tưởngvà tâm lý,khiến cho các tổ chức chính trị - xã hội gặp khó khăn trong tập hợp thành viên và thể hiện vai trò đại diện của mình. Các thành viên trong tổ chức có sự khác biệt, chênh lệch về thu nhập, mức sống và vị thế, sẽ rất khó tìm được tiếng nói chung, thậm chí còn nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, gây cản trở đến hiệu quả hoạt động chung của tổ chức. Đây là một vấn đề rất lớn, bởi nếu các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động không hiệu quả, thì nền tảng xã hội của khối đại đoàn kết toàn dân tộc không còn được bảo đảm.

Bốn là, phân hóa giàu - nghèo tạo ra “mảnh đất” để các thế lực thù địch lợi dụng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng tìm mọi thủ đoạn để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, chia rẽ các giai tầng xã hội; từ đó làm cho địa vị, vai trò lãnh đạo của Đảng bị lung lay. Lợi dụng những biểu hiện lệch lạc về nhận thức, những rạn nứt về tình cảm, niềm tin trong một bộ phận nhân dân, chúng đã tung ra rất nhiều luận điệu phản động, sai trái nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự tác động đó diễn ra một cách vừa chậm rãi, vừa tức thời, song nó là một quá trình liên tục, phức tạp, tác động đến cả nhận thức, tâm lý, hành vi xã hội và đến hoạt động của các tổ chức, lực lượng. Chính vì thế, những tác động này trở nên rất nguy hại, cần phải sớm được khắc phục bằng cả những biện pháp trước mắt và lâu dài.

2. Một số giải pháp phòng ngừa, khắc phục tác động tiêu cực của phân hóa giàu - nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Một là, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc

Đây là yếu tố then chốt, quyết định thành bại của nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Nếu mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân đều nhận thức đúng, đủ, sâu sắc, thống nhất thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc chắc chắn sẽ luôn được giữ vững và củng cố; mọi thách thức, trở ngại đều có thể được hóa giải. Ngược lại, nếu nhận thức không đúng, không thống nhất thì các yếu tố tiêu cực có kẽ hở để len lỏi, xâm nhập, làm chia rẽ, suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. 

Trong đó, trước hết cần phải tập trung vào đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây chính là lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong việc đưa quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Để có thể thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đảng ta đã xác định, mỗi cán bộ, đảng viên phải có nhận thức sâu sắc về nội dung quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc; về vai trò, trách nhiệm của bản thân trong hiện thực hóa các chủ trương mà Đảng đã xác định thông qua việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; phải luôn nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong tu dưỡng phẩm chất đạo đức, luôn gần dân, quan tâm đến nhân dân, biết lắng nghe tiếng nói của nhân dân, xứng đáng là những “hạt nhân đoàn kết” nhân dân. 

Trong bối cảnh mới, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhạy bén, sáng suốt trong nắm bắt, nhận định tình hình, kịp thời phát hiện các yếu tố tác động tiêu cực đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đề xuất giải pháp phòng ngừa, khắc phục.

Đối với các tầng lớp nhân dân, cần thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, khơi dậy trong mỗi người niềm tin, lòng tự hào, tình cảm yêu quý đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho nhân dân thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, thực sự tin vào sức mạnh quy tụ của Đảng, sẵn sàng siết chặt khối đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng; cần hết sức tránh lối tuyên truyền chung chung, giáo điều, sáo rỗng.

Hai là, đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các biện pháp xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, ngăn chặn các hoạt động kinh tế phi pháp và tình trạng tham nhũng, lãng phí

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số… Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội”(11). Việc giải quyết tình trạng phân hóa giàu - nghèo cùng những hệ lụy của nó phải dựa trên việc tạo ra động lực mạnh mẽ để mọi tầng lớp nhân dân tích cực phát triển kinh tế; tránh tư tưởng “cào bằng”, dẫn đến triệt tiêu động lực làm giàu của nhân dân. Khi các chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện hiệu quả, tỷ lệ người khá giả trong xã hội gia tăng thì sức mạnh tổng thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước cũng được tăng cường.

Bên cạnh đó, việc ngăn chặn các hiện tượng làm giàu bất hợp pháp và tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí giữ vai trò rất quan trọng. Bởi đây là một nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng xã hội, tạo nên tâm lý bất mãn, tiêu cực trong các tầng lớp nhân dân. Hiện tượng làm giàu bất hợp pháp nếu không được ngăn chặn hiệu quả sẽ trực tiếp xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đa số nhân dân, làm nảy sinh các vấn đề, tệ nạn xã hội khác. Tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ trực tiếp làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Ngăn chặn hiệu quả các hiện tượng này sẽ là cơ sở để Đảng, Nhà nước giữ vững được lòng tin của nhân dân, quy tụ được sức mạnh đoàn kết của nhân dân.

Ba là, tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội

Đảng ta xác định, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội là một trong các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH, “phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta”(12). Hiện thực hóa quan điểm này của Đảng sẽ vừa hạn chế những vấn đề tiêu cực trên khía cạnh kinh tế, trong đó có hiện tượng phân hóa giàu - nghèo; vừa hạn chế những vấn đề tiêu cực trên khía cạnh chính trị - xã hội, trong đó có những ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để làm được điều đó, Nhà nước phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý, xây dựng hiệu quả hệ thống các chính sách trong các lĩnh vực kinh tế và văn hóa, xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhưng không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, lấy hiệu quả tăng trưởng để cải thiện lĩnh vực văn hóa, xã hội. Bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải đưa ra các chính sách khuyến khích dân cư làm giàu, đồng thời thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp, chính sách phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội; ưu tiên đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn. Đảng ta xác định: “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo. Đổi mới cách tiếp cận, tăng cường phối hợp, lồng ghép, ưu tiên nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực trợ giúp xã hội”(13).

Bốn là, chăm lo giải quyết các quan hệ lợi ích, phát huy dân chủ XHCN. Thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại nhiều hình thức sở hữu, cùng với một hệ thống các quan hệ lợi ích phức tạp. Muốn có đồng thuận xã hội và đoàn kết toàn dân tộc thì việc giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, phát huy dân chủ XHCN là vấn đề cơ bản. Đảng ta chủ trương: “Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”(14). Trong đó, giải quyết hài hòa lợi ích phải được thực hiện thông qua việc đa dạng các hình thức phân phối dựa trên nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội; bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ; gắn lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Phát huy dân chủ phải dựa trên việc tạo ra cơ chế ổn định, vững chắc và hiệu quả để nhân dân thực hiện quyền làm chủ thực tế của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nhân dân biết mình cần thể hiện ý chí, nguyện vọng ở đâu, như thế nào, được giải quyết ra sao. Cùng với đó, phải quan tâm giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để kéo dài, lan rộng gây ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm là, tăng cường công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Hiện nay, hoạt động nghiên cứu, đấu tranh tư tưởng, lý luận của nước ta đã và đang được tiến hành nghiêm túc, bài bản, song vẫn cần phải được quan tâm hơn nữa để nâng cao chất lượng đội ngũ, củng cố tổ chức. Cần nắm bắt tình hình thực tiễn, kịp thời phát hiện các âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, phá hoại của kẻ thù, đồng thời dự báo chính xác diễn biến tình hình để chủ động đấu tranh có hiệu quả. Nội dung đấu tranh tập trung vào vạch trần bản chất phản động, sai trái của các quan điểm chống phá, làm rõ tính đúng đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. 

Trong bối cảnh phân hóa giàu - nghèo vẫn còn có xu hướng tiếp tục gia tăng, cần chủ động tuyên truyền để nhân dân hiểu đó là quy luật của kinh tế thị trường, hiểu rõ quan điểm, chủ trương của Đảng; biến nó thành động lực phát triển kinh tế; kịp thời dập tắt, không cho thế lực thù địch lợi dụng các mâu thuẫn về kinh tế trong nhân dân để biến thành mâu thuẫn chính trị - xã hội, gây chia rẽ các tầng lớp nhân dân và chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.

__________________

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.376.

(2) V.I.Lênin: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.670.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.17.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.12, tr.70.

(5), (11), (12), (13), (14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.211-212, 265, 39, 270, 50.

(6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.86, 86.

(8), (9) Tổng hợp từ Niên giám thống kê quốc gia năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.15, tr.547.

PGSTS LÊ XUÂN THỦY

ThS LÃ TRỌNG ĐẠI

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền