Trang chủ    Bài nổi bật    Bác bỏ luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo
Thứ năm, 23 Tháng 3 2023 16:12
9612 Lượt xem

Bác bỏ luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo

(LLCT) - Vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam luôn bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm mục đích chống phá thành tựu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bài viết nhận diện những luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo qua Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2021 của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ. Bằng những chứng cứ thực tiễn về đời sống tôn giáo ở Việt Nam, bài viết phản bác, phê phán đối với những luận điệu vu cáo Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người.

Một buổi thánh lễ tại Nhà thờ Chợ Quán - Ảnh: vnexpress.net

Trong Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2021 của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, mặc dù đã đề cập đến nỗ lực và tiến triển của Việt Nam trong việc thúc đẩy quyền tự do tôn giáo và bảo đảm đời sống tôn giáo, nhưng vẫn tiếp tục đưa ra những luận điệu cáo buộc Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền, bóp méo sự thật, đánh giá sai lệch về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo đã bỏ qua những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo cho mọi người.

Ngay trong phần tóm tắt của báo cáo đưa ra một số luận điệu: pháp luật Việt Nam quy định sự kiểm soát của chính quyền đối với các hoạt động tôn giáo và có những quy định “mập mờ” cho phép hạn chế tự do tôn giáo, pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo không tương đồng với công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền con người, trái với các tiêu chuẩn về nhân quyền quốc tế; trong năm qua, chính quyền không công nhận tổ chức tôn giáo mới nào, có nhiều hình thức sách nhiễu, theo dõi, từ chối, hoặc không trả lời yêu cầu đăng ký và các yêu cầu xin phép khác, như chính quyền cấp tỉnh và cấp cơ sở sách nhiễu đối với các nhóm Công giáo, Tin lành, trong đó có nhóm Ngũ Tuần độc lập, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, các nhóm Hòa Hảo độc lập, Cao đài độc lập, Dương Văn Mình; chính quyền địa phương ở Tây Nguyên hăm dọa với thành viên một số nhóm Tin lành chưa đăng ký, bắt giữ tín đồ của Hội thánh Truyền giảng Phúc Âm ở tỉnh Đắk Lắk; các nhà chức trách đã giam giữ một số tín đồ của đạo Dương Văn Mình, bắt giữ 03 chức sắc của Cao đài độc lập; v.v..

Những nội dung và dẫn chứng được nêu trong báo cáo hoàn toàn không mang tính đại diện và phổ quát cho đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Một số nhóm tôn giáo mà báo cáo cho rằng chính quyền sách nhiễu, gây khó khăn, như: Hội thánh truyền giảng Phúc Âm, Dương Văn Mình, Hội thánh Tin lành Đấng Christ, Cao đài Độc lập, Hội thánh Tin lành Đề Ga quốc tế... là thông tin sai sự thật, đây đều là các nhóm, tổ chức lợi dụng hoạt động tôn giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chống phá Nhà nước Việt Nam. Mặt khác, báo cáo đưa ra số liệu chức sắc, tín đồ tôn giáo bị bắt, giam giữ, chất vấn về hoạt động tôn giáo của họ cũng là thông tin bịa đặt, bởi pháp luật Việt Nam quy định chỉ những người vi phạm các tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự thì cơ quan chức năng mới tiến hành các thủ tục tố tụng điều tra, truy tố, xét xử.

Ở Việt Nam không có khái niệm “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”. Cần tường minh vấn đề này, không thể mập mờ, “đánh lận con đen” để vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền.

Dễ dàng nhận thấy, ẩn chứa trong báo cáo này là việc lợi dụng vấn đề tôn giáo, biến tôn giáo trở thành một thứ vũ khí lợi hại để xuyên tạc, bóp méo sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam nhằm đưa Việt Nam vào cái gọi là “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt”, gây ảnh hưởng đến hoạt động đối nội, đối ngoại của Việt Nam, làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo sức ép từ bên ngoài và tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, từ đó thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam.

Chiêu bài vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đã có từ lâu. Những đánh giá, kết luận hằng năm của tổ chức này chỉ dựa trên những báo cáo của một số tổ chức phi chính phủ thông qua việc thị sát vài vùng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên và một số nhóm, tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo, nhưng thực chất hoạt động lợi dụng tôn giáo để trục lợi là thiếu tính khách quan, tính chính xác, tính toàn diện, thể hiện sự tùy tiện trong nhận định và đánh giá.

1. Việc Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ cho rằng, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là bước “thụt lùi” về tự do tôn giáo, trái với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế là hoàn toàn không đúng sự thật

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo là một cách thức bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tự do tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà có giới hạn. Khoản 2 điều 29 Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 quy định: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.

Khoản 3 điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cũng quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.

Do đó, theo các quy định này, quyền tự do tôn giáo là quyền giới hạn, quyền này phải bảo đảm sự tôn trọng quyền tự do của những người khác và thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và phúc lợi chung cho xã hội.

Pháp luật của các quốc gia đều phân định rõ ràng giữa tự do tôn giáo và luật pháp, giữa tự do tôn giáo và lợi dụng tự do tôn giáo, nên có những quy định cụ thể về quyền tự do tôn giáo, nhân quyền, đồng thời ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo, nhân quyền để cản trở quyền của người khác, xâm phạm an ninh quốc gia; đều có hành lang pháp lý để xử lý các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm quyền tự do tôn giáo được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với điều kiện thực tiễn, truyền thống lịch sử và văn hóa của từng quốc gia, dân tộc.

Việc Nhà nước Việt Nam đưa ra các quy định pháp luật để quản lý hoạt động tôn giáo là phù hợp và tương đồng với luật pháp quốc tế. Các công ước, điều ước quốc tế về quyền con người liên quan đến quyền tự tôn giáo mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia ký kết đều đưa ra các nguyên tắc: nguyên tắc về những quyền con người cơ bản; nguyên tắc không phân biệt đối xử; nguyên tắc về sự bảo vệ pháp lý; nguyên tắc tăng cường đối thoại; nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác(1).

Theo các nguyên tắc trên, pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể để bảo hộ và thúc đẩy các quyền con người, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, đồng thời tránh việc lợi dụng quyền tự do tôn giáo.

Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Khoản 1 điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”; khoản 1 điều 3 quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

Hiến pháp năm 2013 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có thay đổi quan trọng về chủ thể hưởng quyền tự do tôn giáo từ “công dân” mở rộng sang “mọi người” cho thấy, chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng đồng thời các hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo vi phạm pháp luật cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Các văn bản pháp luật của Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo là một thành tựu trong hoàn thiện chính sách, pháp luật, tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền và nhằm bảo đảm quyền tự do tôn giáo được thực thi, đồng thời bảo vệ, thúc đẩy tự do tôn giáo, thúc đẩy quyền con người, hoàn toàn tương đồng với luật pháp quốc tế và phù hợp thực tiễn đời sống tôn giáo, lịch sử, văn hóa truyền thống của Việt Nam.

Mặt khác, việc hoàn thiện luật pháp, trong đó có luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo, để bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo, quyền con người đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một quốc gia nhận được sự tín nhiệm của cộng đồng thế giới và trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 với số phiếu tín nhiệm cao (184/193 phiếu). Ngày 11-10-2022, Việt Nam lại tiếp tục trúng cử là một trong 14 thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của ASEAN cho vị trí này. Kết quả trên cho thấy, pháp luật, chính sách tôn giáo của Việt Nam; những nỗ lực của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

2. Thực tiễn đời sống tôn giáo Việt Nam là minh chứng bác bỏ luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo

Một là, về công nhận tổ chức tôn giáo

Trước năm 1990, Nhà nước Việt Nam công nhận 03 tổ chức tôn giáo, gồm: Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 33 tổ chức tôn giáo, 04 tổ chức và 01 pháp môn được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động(2). Bên cạnh đó, có trên 3.800 điểm nhóm đã được cấp giấy đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung(3).

Trong quá trình công nhận, cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, chính quyền Trung ương và địa phương hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tuân thủ đúng trình tự pháp luật, tạo nên sự tin tưởng, phấn khởi của chức sắc, tín đồ tôn giáo.

Sau khi được công nhận, tổ chức tôn giáo được tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; được sửa chữa cải tạo trụ sở; tham gia hoạt động từ thiện nhân đạo; tổ chức đại hội thông qua hiến chương; được thành lập, chia tách, sát nhập tổ chức tôn giáo trực thuộc...

Hai là, về số lượng tín đồ

Từ năm 1990 đến nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo đều gia tăng. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 1997, cả nước có trên 15 triệu tín đồ, chiếm hơn 20% dân số cả nước; năm 2003 cả nước có 17,4 triệu tín đồ, năm 2013 cả nước có 24 triệu tín đồ, chiếm 25% dân số và đến năm 2021, cả nước có 26,3 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước(4). Như vậy, số lượng tín đồ liên tục tăng thêm. Ngoài các tín đồ thuộc các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, ước tính gần 90% người Việt Nam có đời sống tâm linh sâu sắc, thực hành niềm tin mang tính đa thần, theo các tín ngưỡng truyền thống như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Việt Nam có 7.966 lễ hội/năm, trong đó 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%); 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,82%); 332 lễ hội lịch sử cách mạng (chiếm 4,16%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), 40 lễ hội khác (chiếm 0,50%)(5). Sự gia tăng tín đồ gắn liền với sự gia tăng của tổ chức tôn giáo và số người xác định mình là tín đồ của một tôn giáo cụ thể và số người thực hành tín ngưỡng truyền thống ngày một tăng lên chính là minh chứng sống động cho tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Ba là, về số lượng cơ sở thờ tự tín ngưỡng, tôn giáo

Số lượng cơ sở thờ tự của tín ngưỡng hiện là 50.703 cơ sở, trong đó có 15.205 cơ sở thuộc danh mục kiểm kê di tích; 31.903 cơ sở đăng ký hoạt động tín ngưỡng theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo(6).

Về cơ sở thờ tự tôn giáo, năm 2000 cả nước có 18.474 cơ sở thờ tự, đến năm 2021 cả nước có 30.047 cơ sở thờ tự, tăng 11.573 cơ sở. Thí dụ, ở tỉnh Hải Dương, năm 2003 có 899 cơ sở, năm 2007 đã tăng lên 995 cở sở; tỉnh Nghệ An năm 2003 có 01 cơ sở, năm 2017 tăng lên 50 cơ sở, tỉnh Lâm Đồng năm 2003 có 121 cơ sở, năm 2017 tăng lên 200 cơ sở(7).

Từ năm 2003 đến năm 2018 các địa phương đã xem xét, giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, trong đó có việc giao đất với quy mô lớn cho các tổ chức tôn giáo như: chính quyền thành phố Đà Nẵng cấp hơn 10.000 m2 đất cho Công giáo để mở rộng Tòa Giám mục Đà Nẵng, giao 5.000 m2 đất xây dựng trụ sở Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam; chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh giao 7.500m2 đất cho Tổng liên hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) để xây dựng Viện Thánh kinh thần học; chính quyền Thành phố Hà Nội giao 10 ha cho Giáo hội Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo; chính quyền tỉnh Quảng Trị giao thêm 15 ha đất cho Giáo xứ La Vang; chính quyền tỉnh Thừa Thiên - Huế cấp 10 ha đất xây dựng Thiền viện Bạch Mã; chính quyền thành phố Hải Phòng cấp 10.000m2 đất xây dựng nhà dưỡng hưu cho các linh mục, tu sĩ thuộc Giáo phận Hải Phòng; chính quyền tỉnh Ninh Bình cấp 15.000 m2 đất xây dựng Trung tâm Mục vụ Giáo phận Phát Diệm(8)... Tính đến ngày 31-12-2015, cả nước có 18.017 ha đất tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó đất tôn giáo là 11.720 ha (chiếm trên 65%), đã cấp 19.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất(9).

Bốn là, về sinh hoạt tôn giáo

Sinh hoạt tôn giáo của cá nhân và tổ chức tôn giáo được diễn ra bình thường tại gia đình, cơ sở thờ tự theo quy định của pháp luật. Nhiều hoạt động tôn giáo diễn ra với quy mô lớn như Hội Yến Diêu trì cung của đạo Cao đài; Đại lễ Vesak Liên hợp quốc được tổ chức 03 lần tại Việt Nam vào các năm 2008, 2014, 2019; lễ hội La Vang của Công giáo; lễ kỷ niệm 100 năm Tin lành truyền đến Việt Nam của đạo Tin lành. Các hoạt động tôn giáo nêu trên đều thu hút số lượng lớn tín đồ ở trong nước và ở nước ngoài. Chỉ tính riêng Đại lễ Vesak Liên hợp quốc năm 2019 tại Tam Chúc, tỉnh Hà Nam đã thu hút sự tham dự của hơn 3.000 đại biểu chính thức, trong đó có 570 đoàn quốc tế, với 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 04 nguyên thủ quốc gia, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc, đại diện các tổ chức quốc tế, đại sứ quán các nước tại Việt Nam; đại diện các tổ chức, tông phái Phật giáo trên thế giới; chức sắc, tăng ni, phật tử tiêu biểu trong và ngoài nước thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam; đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương và địa phương(10). Trong 03 ngày diễn ra đại lễ, mỗi ngày có khoảng 50.000 lượt tăng ni, phật tử tham gia các hoạt động.

Năm là, về in ấn xuất bản kinh, sách

Năm 1998, Chính phủ đã chấp thuận việc thành lập Nhà xuất bản Tôn giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ, có trách nhiệm xuất bản các xuất bản phẩm phục vụ công tác tôn giáo và đồng bào có đạo. Cho đến năm 2014, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản cho 4.347 ấn phẩm tôn giáo, trong đó Phật giáo 2.869, Công giáo 1.828, Tin lành 680 ấn phẩm, ngoài ra 205 văn hóa phẩm liên quan đến tôn giáo như: lịch, băng đĩa(11).

Từ năm 2018 đến năm 2020, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp quyết định xuất bản cho 1.457 xuất bản phẩm, với 5.47 triệu bản in, riêng Công giáo và Tin lành số lượng bản in của Kinh thánh là 1 triệu bản. Kinh thánh Cựu ước và Tân ước của đạo Tin lành không chỉ được dịch ra tiếng Việt, mà còn được dịch ra 15 ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số khác của Việt Nam như: Cơ ho, Bru - Vân kiều, Êđê, Gia-rai, Bana, Xtiêng, Mnông, Chăm, H’rê, Nùng, Hoa, Tày v.v.. nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào.

Các tôn giáo lớn đều có báo, tạp chí, các trang wibsite... hoạt động liên tục để truyền tải các thông tin liên quan đến các hoạt động của tổ chức tôn giáo, riêng Phật giáo được cấp phép cho 08 đơn vị thuộc lĩnh vực thông tin truyền thông: Báo Giác ngộ, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí Phật giáo Nguyên thủy, các trang tin điện tử Phật sự online, Cổng thông tin Phật giáo, phatgiao.org.vn; Công giáo có tờ tập san Hiệp thông, báo Công giáo và Dân tộc, báo Người Công giáo Việt Nam; Tin lành có tờ Mục vụ, Thông công; Phật giáo Hòa Hảo có tạp chí Hương Sen...

Sáu là, về mở trường đạo chức sắc tôn giáo

Trước năm 1990 chỉ có một số cơ sở đào tạo chức sắc của Phật giáo, Công giáo hoạt động, từ năm 1990 đến nay, nhiều cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo được thành lập, đáp ứng việc đào tạo chức sắc tôn giáo để hướng dẫn hoạt động tôn giáo của tín đồ. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến tháng 12-2021, cả nước có 65 cơ sở đào tạo người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, trong đó: Phật giáo 48 cơ sở, Công giáo 11 cơ sở; Tin lành 04 cơ sở; Cao đài 01 cơ sở và Phật giáo Hòa Hảo 01 cơ sở. Mỗi năm có hàng nghìn người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp tốt nghiệp các trường đào tạo của tôn giáo. Năm 2021, cả nước có 8.884 người tốt nghiệp ra trường, 13.350 người đang theo học. Không chỉ đào tạo chức sắc tôn giáo ở trong nước, các tổ chức tôn giáo còn cử chức sắc tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài ở các bậc thạc sĩ, tiến sĩ, nhằm nâng cao chất lượng chức sắc, đồng thời tạo ra sắc diện mới cho sự phát triển của các tôn giáo.

Nhờ đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành, những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, số chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo tăng nhanh. Chỉ tính riêng số lượng chức sắc tôn giáo, năm 1995 có 31.548 người, năm 2021 là 54.125 người, chỉ trong hơn 20 năm qua, số lượng chức sắc tôn giáo đã tăng lên trên 20 nghìn người.

Bảy là, về hoạt động quốc tế của các tổ chức tôn giáo

Từ năm 1990 đến nay, hoạt động quốc tế của các tôn giáo đa dạng và phong phú trên nhiều phương diện: quan hệ đồng đạo thông qua việc giao lưu, hỗ trợ tín đồ, chức sắc, chia sẻ thông tin, thăm viếng, đào tạo chức sắc; quan hệ về tổ chức, như hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm chức sắc; quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo dựa trên tinh thần đối thoại, liên tôn trước những vấn đề như đói nghèo, chiến tranh, môi trường, công bằng xã hội. Nhà nước Việt Nam hỗ trợ, giúp đỡ các cá nhân, tổ chức tôn giáo tham gia các chương trình đối thoại, hội thảo về tôn giáo. Trong các năm 2011 - 2020 đã có hàng trăm đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam và nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo Việt Nam tham gia hoạt động quốc tế ở nước ngoài. Việt Nam chấp thuận Vatican cử đại diện không thường trú tại Việt Nam.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 539 (tháng 01-2023)

Ngày nhận bài: 06-12-2022; Ngày bình duyệt: 07-01-2023; Ngày duyệt đăng: 27-01-2023.

 

(1) Xem Chu Văn Tuấn (Chủ biên): Đời sống tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2021, tr.123.

(2), (7), (8), (11) Nguyễn Thanh Xuân: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2020, tr.428-433, 436-437, 437-438, 439.

(3) Ban Tôn giáo Chính phủ: Báo cáo 03 năm thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội, 2021, tr.10.

(4) Nguồn: Phòng Tổng hợp thống kê, Văn phòng Ban Tôn giáo Chính phủ.

(5) Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch: Thống kê lễ hội, truy cập ngày 10-01-2023.

(6) Ban Tôn giáo Chính phủ: Báo cáo 03 năm thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội, 2021, tr.2.

(9) Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết số 25 về công tác tôn giáo: Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo.

(10) Bộ Nội vụ: Báo cáo Kết quả công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc 2019 tại chùa Tam Chúc, Kim Bảng, Hà Nam, Hà Nội, 2019.

TS ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

Viện Tôn giáo và Tín ngưỡng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền