Trang chủ    Bài nổi bật    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng    Hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Thứ hai, 03 Tháng 4 2023 14:24
4999 Lượt xem

Hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

(LLCT) - Trên cơ sở rà soát những văn bản liên quan đến cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức nước ta thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Sinh viên trong ngày tốt nghiệp đại học - Ảnh: nhandan.vn

1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức trong thời kỳ đổi mới

Để phục vụ cho mục tiêu phát triển nhanh đội ngũ trí thức, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức và việc triển khai thực hiện đã đạt được nhiều thành tựu:

Một là, ban hành nghị quyết của Đảng và xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của các bộ, ngành, địa phương nhằm tạo môi trường, điều kiện và động lực thúc đẩy đội ngũ trí thức phát triển

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức và bước đầu đạt kết quả, trong đó có chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức. Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X, ngày 6-8-2008, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết đã xác định một trong các nhiệm vụ và giải pháp căn bản là phải tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức. Theo đó, thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước; xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; tạo điều kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nhân tài cho đất nước; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, bất cập trong phát triển đội ngũ trí thức, ngày 30-5-2019, Ban Bí thư đã ra Kết luận số 52-KL/TW yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể tập trung “Xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030”.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, ngày 19-4-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, trong đó xác định rõ mục tiêu phát triển đội ngũ trí thức là: “Xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, giải quyết về cơ bản những vấn đề phát triển của đất nước và hội nhập với các xu hướng phát triển khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ trên thế giới”(1).

Tiếp đó, ngày 22-7-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1216/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020”.

Để tạo lập khung pháp lý, bên cạnh các quy định pháp luật chung, còn có những quy định đặc thù về cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức nhằm tạo môi trường, điều kiện và động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức lao động, sáng tạo, đồng thời khai thác, sử dụng hiệu quả hơn năng lực trí tuệ của đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng đất nước. Cụ thể, đã ban hành Luật Khoa học và công nghệ năm 2013; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, v.v.. đã thể chế hóa mục tiêu, quan điểm của Đảng về đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, đồng thời tạo lập khung pháp lý về chính sách giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Quán triệt quan điểm của Đảng và căn cứ vào Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng chiến lược phát triển nhân lực của ngành, địa phương mình.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12-5-2014 về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ với 33 điều quy định cụ thể cho ba đối tượng, bao gồm: nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học được giao nhiệm vụ quốc gia và nhà khoa học trẻ, nhằm tạo điều kiện và môi trường hoạt động khoa học thuận lợi và phát huy tối đa năng lực, đồng thời, có chế độ bảo đảm những lợi ích xứng đáng cho những đóng góp của trí thức trong phát triển khoa học và công nghệ của đất nước.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trong vòng 20 năm trở lại đây đã chủ trì thực hiện hai đề án đào tạo nhân lực trình độ tiến sĩ và thạc sĩ, gồm: Đề án “Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” theo Quyết định số 322/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thực hiện từ năm 2000 đến năm 2005, kéo dài đến năm 2010 (gọi tắt Đề án 322). Ngày 18-01-2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030”. Đề án hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một trong những mục tiêu cụ thể của Đề án là đào tạo trình độ tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, trong đó 7% giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; 3% giảng viên được đào tạo trong nước và phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam với các trường đại học nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới. Phấn đấu 80% giảng viên các trường thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao đạt trình độ thạc sĩ trở lên, được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài và trong nước đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới, cơ cấu hợp lý.

Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên trình độ cao giai đoạn 2011-2020”; Quyết định số 1243/QĐ-TTg ngày 25-7-2011 phê duyệt Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011-2020”. Các Bộ Tài Chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, các địa phương v.v.. đều đã xây dựng đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ trí thức của bộ, ngành, địa phương mình, đáp ứng yêu cầu quá trình phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, đã đặc biệt quan tâm phát triển đội ngũ trí thức lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa rất quan trọng, với quan điểm cán bộ là gốc của mọi công việc, công tác cán bộ là công việc hệ trọng của Đảng. Ngày 19-5-2018, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Tiếp đó, ngày 02-01-2020, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 214-QĐ/TW, quy định “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” thay thế Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04-8-2017 của Bộ Chính trị với nhiều điểm bổ sung, sửa đổi quan trọng. Tiếp tục tinh thần này, Đại hội XIII của Đảng khẳng định chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược gắn với vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.

Với việc triển khai thực hiện hệ thống văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước và của các bộ, ngành, địa phương, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong nhiều năm qua đã được coi trọng, qua đó tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đội ngũ trí thức nước ta lớn mạnh về số lượng, gia tăng về chất lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, là nền tảng để đội ngũ này không ngừng vươn lên ngang tầm trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Hai là, quy mô các cơ sở đào tạo đại học trong nước không ngừng tăng lên, chất lượng đào tạo từng bước được nâng cao

Quán triệt quan điểm của Đảng: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”(2), sau hơn 35 năm đổi mới, mạng lưới cơ sở giáo dục - đào tạo phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Nội dung đào tạo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học và công nghệ, đồng thời, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghệ số và bám sát hơn vào nhu cầu của thị trường.

Phương pháp giáo dục những năm qua có những chuyển biến tích cực theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học, tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, kỹ năng số... Công nghệ thông tin được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong quá trình đào tạo và góp phần quan trọng vào việc xã hội hóa giáo dục, mặt khác, giúp cho người học tiếp cận nhanh hơn đến những tri thức mới của thế giới. Nhờ vậy, số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức cũng ngày càng được nâng cao.

Ba là, đầu tư từ ngân sách nhà nước và từ xã hội cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ ngày càng tăng; sự gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất - kinh doanh ngày càng chặt chẽ

Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hằng năm đạt xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP(3). Nhà nước tăng cường đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó coi trọng khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao (Hòa Lạc - Thành phố Hà Nội; Thành phố Hồ Chí Minh; thành phố Đà Nẵng), tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu sáng tạo của đội ngũ trí thức trong và ngoài nước; mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa - văn nghệ...

Đầu tư của xã hội, chủ yếu của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ những năm qua cũng có xu hướng tăng. Nhờ đó, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ đã được nâng cấp và cải thiện một bước. Hạ tầng thông tin khoa học và công nghệ có bước phát triển về chất trên cơ sở ứng dụng rộng rãi internet, công nghệ số hóa và thư viện điện tử. Đó là môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức.

Công tác xã hội hóa giáo dục cũng đạt được những kết quả quan trọng, nhất là huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở trường và đóng góp kinh phí cho giáo dục. Các nguồn đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát chặt chẽ và tăng dần hiệu quả sử dụng.

Những năm qua, xuất phát từ yêu cầu của thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nhà nước đã coi trọng phát triển các viện nghiên cứu hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp kiểu này, nguồn nhân lực làm công tác nghiên cứu khoa học trình độ cao có vai trò nòng cốt, có khả năng khởi xướng và đổi mới công nghệ, quy trình quản lý nghiên cứu, sản xuất, giữ vai trò then chốt trong sự phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh.

Theo mô hình này, chương trình đào tạo hướng tới nâng cao năng lực thực hành, trang bị cho người học những kỹ năng nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn phát triển công nghệ và môi trường làm việc. Song, để xây dựng và phát triển mô hình đào tạo này một cách hiệu quả cần xây dựng được khung chương trình mang tính thực hành cao, phù hợp với môi trường làm việc thực tế của doanh nghiệp, đồng thời, bảo đảm cập nhật kịp thời những thay đổi công nghệ nhanh chóng, nhất là trong các ngành nghề và lĩnh vực công nghệ cao, kỹ thuật số.

Bên cạnh những kết quả cơ bản đã đạt được, nhìn tổng thể, cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trong quá trình triển khai thực hiện cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập:

Một là, nghị quyết, văn bản chậm được triển khai thực hiện; công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập

Mặc dù Nghị quyết 27 được ban hành từ năm 2008 xác định mục tiêu “xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020”, tuy nhiên, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ trí thức chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật; công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng chưa thực sự quyết liệt; công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên. Chẳng hạn, phải đến tháng 5-2020, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng đại diện các bộ, ngành Trung ương mới có phiên họp đầu tiên của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Đề án Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030.

Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030” theo Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2019, nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai thực hiện.

Chính những trì trệ trong triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã là rào cản, hạn chế sự phát triển của đội ngũ trí thức nước ta trong hơn 15 năm qua. Hơn nữa, hệ thống giáo dục còn lạc hậu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao, nhất là đội ngũ trí thức, các chuyên gia đầu ngành của các lĩnh vực.

Công tác quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi liền với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Qua nghiên cứu cho thấy, nhiều chương trình, đề án vừa chậm được triển khai thực hiện, vừa bộc lộ nhiều bất cập. Chẳng hạn như: Quyết định số 911/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17-6-2010 triển khai thực hiện Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020” (gọi tắt là Đề án 911). Đề án này triển khai đến hết năm 2016 đã bộc lộ hàng loạt hạn chế, như: hiệu quả đào tạo thấp, không đạt mục tiêu đề ra ở cả ba hình thức đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài và liên kết đào tạo giữa đại học Việt Nam và các trường nước ngoài; một số trong 9 trung tâm đào tạo tiến sĩ được thành lập và được cấp kinh phí đầu tư theo đề án hoạt động không hiệu quả, không đúng chức năng, gây lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước. Mới đây, kết luận của Kiểm toán nhà nước kiến nghị xử lý tài chính đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo với tổng số tiền hơn 53 tỷ đồng(4).

Hệ thống pháp luật và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự yếu kém trong công tác quản lý giáo dục và đào tạo, nhất là buông lỏng trong công tác quản lý đào tạo sau đại học, sự bất cập, lạc hậu trong chương trình đào tạo đã dẫn đến hệ quả là nhiều người được đào tạo ở bậc sau đại học nhưng không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, của quá trình nghiên cứu sáng tạo trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, nhất là những ngành công nghệ cao. Thực chất cơ chế quản lý đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo đội ngũ trí thức là một trong những mắt khâu yếu và nảy sinh nhiều tiêu cực cần phải sớm khắc phục.

Hai là, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo đội ngũ trí thức chậm được đổi mới

Nội dung chương trình còn nặng về lý thuyết, nghiên cứu cơ bản, ít thực hành và xa rời đời sống thực tế, tính ứng dụng thấp. Phương pháp và hình thức dạy học vẫn chủ yếu là truyền thụ kiến thức một chiều có tính áp đặt, “nhồi nhét” kiến thức; việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng số cho trí thức chưa được chú trọng. Số lượng các trường cao đẳng, đại học không ngừng gia tăng nhưng chương trình và chất lượng đào tạo dường như khó kiểm soát, dẫn đến các hiện tượng “học giả” - bằng thật; nhiều vụ việc tiêu cực trong hệ thống giáo dục diễn ra nghiêm trọng... gây bức xúc trong dư luận xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng trí thức nước ta đông nhưng chưa mạnh. Cơ cấu và sự phân bố trí thức còn nhiều bất cập; các chuyên gia đầu ngành và các chức danh tương đương còn thiếu nghiêm trọng; hẫng hụt về đội ngũ kế cận. Tình trạng thiếu hụt cán bộ tài năng trong khoa học, công nghệ, kinh doanh, trong lãnh đạo, quản lý đang trở thành nguy cơ làm suy giảm khả năng cạnh tranh và kìm hãm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ba là, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức còn thiếu và nhiều nơi còn lạc hậu

Để bảo đảm chất lượng đào tạo nói chung, nhất là đào tạo đội ngũ trí thức thì yêu cầu về cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại là vô cùng cần thiết. Nhưng hiện nay, ở hầu hết các đơn vị đào tạo bậc cao, cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ còn thiếu, lạc hậu, chậm đổi mới. Số lượng thiết bị của các trường hầu hết không đáp ứng được nhu cầu thực hành của sinh viên và theo yêu cầu của chương trình đào tạo, nhiều cơ sở đào tạo chưa đạt chuẩn.

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Một là, thống nhất nhận thức về trí thức, từ đó làm căn cứ để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đội ngũ trí thức

Hiện nay chưa có sự thống nhất trong nhận thức về nội hàm khái niệm trí thức. Đây là một rào cản lớn trong công tác điều tra, khảo sát, quản lý đội ngũ này ở các cấp. Chỉ khi xác định rõ nội hàm của khái niệm “trí thức” mới xác định được đội ngũ trí thức là những ai, số lượng, chất lượng, trình độ, khi đó mới có căn cứ khoa học để tiến hành những điều tra, thống kê về số lượng, chất lượng, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức, từ đó mới có thể đưa ra được giải pháp đúng, trúng và khả thi để thực hiện trong chiến lược phát triển đội ngũ này. Do vậy, việc nghiên cứu triển khai các đề tài khoa học về trí thức cần sớm có sự thống nhất trong nhận thức, nhất là xác định rõ bộ tiêu chí làm căn cứ để định danh, phân loại đội ngũ trí thức.

Việc thống nhất nhận thức về trí thức cũng là căn cứ khoa học quan trọng để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đội ngũ trí thức, làm căn cứ kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào cơ sở dữ liệu quốc gia và căn cứ vào tình hình thực tiễn của mình để tiến hành xây dựng bộ dữ liệu về đội ngũ trí thức của chính mình nhằm phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ trí thức, cũng như xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức của bộ, ngành, địa phương mình một cách chủ động, hiệu quả.

Hai là, rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức làm căn cứ bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, hoặc ban hành nghị quyết, chiến lược mới về phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Cần tập trung rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện có liên quan đến trí thức, đến đào tạo đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, đánh giá tính phù hợp, còn giá trị của các văn bản và tính lỗi thời không còn phù hợp, hoặc chồng chéo để đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Đồng thời, đó cũng là căn cứ để đề xuất xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Việc xây dựng “Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” cũng nhằm hiện thực hóa những quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội XIII: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới”(5).

Ba là, xây dựng những chính sách đặc thù để đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân tài của đất nước; ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức là nhà lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực then chốt

Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định rõ quan điểm: trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến nay, quan điểm của Đảng vẫn chưa được thể chế thành chính sách qua các văn bản pháp luật. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, do vậy, trong hệ thống chính sách phát triển đội ngũ trí thức thì chính sách phát triển nhân tài phải được xem là đột phá.Từ yêu cầu đó, cần tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức vừa bảo đảm chất lượng đào tạo đại trà, vừa xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước. Trong đó, coi trọng xây dựng chiến lược và chính sách cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Với ý nghĩa đó, trong thời gian tới cần khẩn trương ban hành “Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045” và “Chiến lược phát triển nhân tài quốc gia”. Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra nhiệm vụ “ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(6). Đây là một trong ba đột phá chiến lược và là điểm mới, mấu chốt trong bối cảnh khoa học, công nghệ đang phát triển rất nhanh chóng. Vì vậy, rất cần những nhà lãnh đạo, người đứng đầu có phẩm chất tốt, trình độ cao và năng lực quản trị hiện đại nhằm góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, đồng thời, họ cũng chính là những chủ thể trực tiếp tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức ở các cấp, các ngành, các địa phương. Theo đó, thời gian tới, Chính phủ cần nghiên cứu đề xuất xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực then chốt.

Bốn là, bảo đảm cơ chế dân chủ và đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động sáng tạo của đội ngũ trí thức

Sáng tạo là đặc trưng nổi bật trong hoạt động của trí thức, song họ chỉ sáng tạo được khi cơ chế dân chủ được bảo đảm. Do vậy, cần tạo môi trường và điều kiện nghiên cứu khoa học thật sự dân chủ, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến, những đề xuất của trí thức. Đồng thời, tăng đầu tư phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và sáng tạo của trí thức, trong đó, chú trọng các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn. Khẳng định điều này, Đảng ta chỉ rõ: “Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học”(7), nhằm “khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn”(8).

Trí thức là tài sản vô giá của quốc gia, “đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”(9). Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phải được xây dựng trên nền tảng tư duy khoa học. Mặc dù đã đạt những kết quả nhất định, nhưng vấn đề đổi mới cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm đoàn kết, tập hợp, phát huy đội ngũ trí thức, chắc chắn rằng đội ngũ trí thức Việt Nam sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 540 (tháng 02-2023)

Ngày nhận bài: 30-01-2023; Ngày bình duyệt: 08-02- 2023; Ngày duyệt đăng: 21-02-2023.

 

(1) Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 của Thủ tướng Chính phủ, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Quyet-dinh-579-QD-TTg-phe-duyet-Chien-luoc-phat-trien-nhan-luc-Viet-Nam-122715.aspx.

(2), (5), (6), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.136, 167, 203-204, 167, 227.

(3) Ngân sách cho giáo dục còn nhiều bất cập, https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html,

(4) Bộ Giáo dục bị kiến nghị bồi hoàn ngân sách hơn 53 tỷ đồng, https://vnexpress.net/bo-giao-duc-bi-kien-nghi-boi-hoan-ngan-sach-hon-53-ty-dong-3696210.html, ngày 9-01-2018.

(9) Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X ( số 27-NQ/TW, ngày 6 - 8 - 2008 Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước). ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.67, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.792-807.

PGS, TS BÙI THỊ NGỌC LAN

ThS LÊ MINH PHƯƠNG

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền