Trang chủ    Bài nổi bật    Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Thứ ba, 02 Tháng 12 2014 17:40
2146 Lượt xem

Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và giá trị tham khảo đối với Việt Nam

(LLCT) - Nhà nước pháp quyền là một phạm trù thuộc khoa học chính trị - pháp lý, xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, bắt nguồn từ tư tưởng về nguyên tắc cai trị bằng luật pháp hơn là nguyên tắc cai trị bằng quyền lực tuyệt đối của nhà vua hay nhà độc tài. Mặc dù ý niệm về “Nhà nước pháp quyền” được các nhà nhà triết học Hy Lạp ít nhiều đã đề cập, nhưng phải đến thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu, khái niệm này mới được thực sự luận bàn và phát triển và làm tiền đề cho sự thịnh hành ở thế kỷ XX trở đi trên quy mô toàn cầu.

1. Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền (NNPQ)là một phạm trù thuộc khoa học chính trị - pháp lý, xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, bắt nguồn từ tư tưởng về nguyên tắc cai trị bằng luật pháp (rule by law) hơn là nguyên tắc cai trị bằng quyền lực tuyệt đối của nhà vua hay nhà độc tài (rule by man). Mặc dù ý niệm về “Nhà nước pháp quyền” (rule of law) được các nhà nhà triết học Hy Lạp ít nhiều đã đề cập, nhưng phải đến thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu, khái niệm này mới được thực sự luận bàn và phát triển và làm tiền đề cho sự thịnh hành ở thế kỷ XX trở đi trên quy mô toàn cầu.

Nhà nước pháp quyền, hiểu một cách cơ bản nhất là một chế độ xã hội và một chính thể nhà nước đặt pháp luật là nguyên tắc tối thượng: không có ai ở trên luật hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật, bất kể là vua, tổng thống, thủ tướng hay người dân thường.

Toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các nhánh quyền lực của nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) nếu được thiết kế dựa trên nguyên tắc pháp quyền(rule of law) sẽ là một tiền đề quan trọng nhất cho các quyền và tự do của công dân được bảo đảm và thực thi. Nguyên tắc pháp quyền hiểu theo nghĩa rộng bao trùm toàn bộ các nguyên tắc nền tảng làm tiền đề cho việc tổ chức, hoạt động, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người. Như vậy, nguyên tắc pháp quyền không chỉ là nguyên tắc đòi hỏi việc quản lý, điều hành (hay cai trị) xã hội ấy phải bằng luật pháp, mà điều quan trọng hơn là toàn bộ tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ấy phải chịu sự điều chỉnh và giám sát của luật pháp. Hơn nữa, luật pháp ấy phải là thể hiện được ý chí của đa số nhân dân. Nghĩa là các nguyên tắc pháp quyền ấy phải là sự lựa chọn và xác lập bằng các cơ chế thể hiện ý chí trực tiếp hoặc đại diện của nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, nguyên tắc pháp quyền (rule of law) đồng nhất với chế độ pháp quyền hay nhà nước pháp quyền (law-governed state).

Liên hợp quốc và hệ thống pháp luật quốc tế ngày càng hoàn thiện, điều chỉnh các quy tắc ứng xử không chỉ giữa các công dân với nhà nước mà toàn thể cộng đồng nhân loại, các quan niệm về NNPQ ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở thành một trong những tiền đề quan trọng nhất của cộng đồng quốc tế trong quá trình xây dựng xã hội hòa bình, tiến bộ, dân chủ và văn minh(1).

Báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp quốc về nhà nước pháp quyền và tư pháp chuyển đổi trong các xã hội xung đột và hậu xung đột (xuất bản năm 2004), đã xác định: “Đối với Liên hợp quốc, pháp quyền là một nguyên tắc của quản trị mà ở đó tất cả các cá nhân, cơ quan và các tổ chức, công và tư, bao gồm chính nhà nước, là phải giải trình trước luật pháp được ban hành một cách công khai, được thực thi một cách bình đẳng và được xét xử một cách độc lập, và phù hợp với các quy phạm và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Cũng như nó đòi hỏi về các biện pháp đối với việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật, sự bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình trước pháp luật, tính công bằng trong việc áp dụng pháp luật, phân chia quyền lực, tham gia vào việc ra quyết định, đảm bảo pháp lý, tránh sự tùy tiện và sự minh bạch về thủ tục và pháp lý”(2).

Quan điểm được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế hiện nay cho rằng có ba thước đo của nguyên tắc pháp quyền và NNPQ đó là: Quyền con người (đánh dấu bằng các quyền con người toàn cầu được thừa nhận rộng rãi trong Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền 1948, các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc và công ước nhân quyền khu vực); hình thức/thể chế (bao gồm: quy định bằng luật, mang tính phổ quát và bình đẳng, áp dụng như nhau, có thể tiếp cận được công khai, đồng bộ, tương thích, dễ hiểu, mang tính tuân thủ, tòa án công tâm, trình tự, thủ tục công bằng, sự thẩm tra, giám sát của tư pháp đối với hành pháp và tiếp cận công lý); chế độ chính trị theo đó đề cao tính tối cao của Hiến pháp, sự cân bằng và đối trọng quyền lực, các cơ quan được bầu một cách dân chủ và phân chia quyền lực(3)

Sự phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền

Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các trào lưu tư tưởng về đề cao vai trò của pháp luật trong việc xác lập các nguyên tắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cho việc tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân.

Nhà nước pháp quyền theo quan niệm của các nhà tư tưởng Phục Hưng và Khai Sáng, đặc biệt là Môngtétxkiơ, đó là sự phân chia và chế ước quyền lực nhà nước thành các nhánh (lập pháp, hành pháp và tư pháp) rạch ròi, sao cho pháp luật được đề cao và thực thi hiệu quả, các quyền và tự do cơ bản của công dân được bảo đảm. Nhà nước pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách quản lý và điều hành xã hội, hay nói chung là những người được giao cho việc cai trị, phải thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu, do người dân bầu ra, dù bằng hình thức bầu trực tiếp hay qua hình thức đại diện. Montesquieu đặc biệt nhấn mạnh đến sự phân chia giữa các nhánh quyền lực nhà nước và về mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp (nghị viện/quốc hội), với cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp (tòa án) để hạn chế sự tùy tiện hay vượt quá giới hạn của bất cứ quyền lực nào, nhất là quyền hành pháp. NNPQ được thực hiện thông qua mô hình dân chủ điển hình nhất là dân chủ nghị viện, theo đó quyền lập pháp (nghị viện) hạn chế quyền lực của phía hành pháp (chính phủ). Như vậy chính phủ không thể tự do hành động theo sở thích của mình và phải luôn có được sự hậu thuẫn của nghị viện, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân chúng. Tương tự như vậy, quyền tư pháp cho phép tạo ra sự đối trọng với một số quyết định của chính phủ, đồng thời giúp công dân bảo vệ được các quyền và tự do trong trường hợp các quyền ấy bị tùy tiện tước đi bởi cơ quan hành pháp.

Trên thế giới hiện nay có ba trường phái chính hay quan niệm khác nhau về NNPQ đại diện cho ba truyền thống tư tưởng triết học - chính trị và tư duy pháp lý châu Âu: 1) Rechtsstaat (Đức); 2) Des L’Etat de Droit (Pháp); 3) Rule of Law (Anh).

Quan niệm NNPQ của truyền thống Đức (Rechtsstaat) xem NNPQ là một nhà nước trong đó các quy phạm pháp luật được sắp xếp có trật tự sao cho quyền lực phải chịu sự giới hạn. Theo đó, mỗi quy phạm có được hiệu lực từ sự tuân thủ các quy phạm cao hơn. Sự tồn tại một trật tự có thứ bậc các quy phạm tạo nên một trong những đảm bảo quan trọng bậc nhất của nhà nước pháp quyền. Trong khuôn mẫu đó, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước phải được xác định một cách rõ ràng và các quy phạm mà những cơ quan này tạo ra chỉ có hiệu lực với điều kiện tuân thủ toàn bộ các quy phạm có hiệu lực cao hơn. Cao nhất của hệ thống các quy phạm pháp luật là hiến pháp.

Trong một NNPQ, quyền lực của nhà nước bị hạn chế để bảo vệ công dân khỏi việc thực thi quyền lực một cách tùy tiện, công dân được hưởng các quyền tự do dân sự một cách hợp pháp và họ có thể sử dụng hệ thống tòa án để bảo vệ các quyền ấy. Một đất nước không thể là một nền dân chủ tự do nếu trước hết không phải là một NNPQ.

NNPQ theo quan điểm của châu Âu lục địa (continental law), dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng pháp luật (positive law) và theo quan điểm các nhà tư tưởng Đức, theo đó pháp luật ra đời gắn liền với nhà nước, với sự hình thành và phát triển của nhà nước, nhà nước và pháp luật không thể tách rời. Chính vì vậy, khái niệm NNPQ được cấu thành từ hai từ “reich” (luật, pháp quyền) và “state” (nhà nước).  

Quan điểm NNPQ theo truyền thống Anglo-American (Anh - Mỹ) (rule of law). Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân; quyền lực của nhân dân là cơ sở, nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với nhân dân, nhà nước không có quyền mà chỉ thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân mà thôi; công dân trao cho nhà nước các quyền lực thông qua một khế ước xã hội và hoàn toàn có quyền rút lại khế ước ấy trong chừng mực nhà nước tước đi các quyền tự nhiên thiêng liêng của công dân. Vai trò của pháp luật tự nhiên là xác lập các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mọi quyền lực nhà nước để bảo vệ các quyền tự nhiên cơ bản của con người. Vì vậy, NNPQ là nhà nước được hình thành bằng luật tự nhiên và có nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ các quyền tự nhiên của tất cả mọi người.

Rule of Law là nguyên tắc mà ở đó tất cả mọi người và mọi thiết chế đều phải phục tùng và chịu trách nhiệm giải trình đối với luật pháp và được áp dụng, thực thi công bằng đối với họ.

Ba nguyên tắc cơ bản và trở thành phổ biến trong truyền thống NNPQ của Anh - Mỹ và thế giới ngày nay được Dicey đưa ra vào năm 1885, đó là : 1) Không ai có thể bị trừng phạt hoặc phải chịu đựng một hình phạt ngoại trừ một hành vi trái pháp luật được chứng minh tại tòa; 2) Không ai đứng trên pháp luật và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất kể địa vị xã hội, kinh tế hay chính trị của họ; 3) Nguyên tắc pháp quyền bao gồm những kết quả của các quyết định tư pháp xác định các quyền của cá nhân(4). Những nguyên tắc cơ bản này đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại, đặc biệt liên quan đến các chế độ bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi toàn cầu.

Tiếp nối truyền thống tư duy chính trị - pháp lý dựa trên pháp luật tự nhiên (natural law) của John Locke, các nhà tư tưởng khai sáng Hoa Kỳ, như Thomas Paine, Thomas Jefferson, Madison và Abraham Lincoln,… đã đặc biệt đề cao vai trò của pháp luật, các nguyên tắc pháp quyền, nhất là tính tối cao của hiến pháp, sự phân chia quyền lực, ghi nhận và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân,… Nguyên tắc pháp quyền, Rule of Law, trong tư duy chính trị - pháp lý Hoa Kỳ được xem là xương sống cho việc tổ chức, thiết kế và vận hành của nền dân chủ Hoa Kỳ.

2. Giá trị tham khảo cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam

Lý luận về NNPQ có những đặc trưng chung và có thể được áp dụng cho những mô hình phát triển xã hội khác nhau hay những đặc thù về trình độ phát triển, điều kiện văn hóa khác nhau. Đối với Việt Nam, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên một NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, những giá trị chung, phổ biến này hoàn toàn phù hợp với Việt Nam. Đó là: Tính thượng tôn của pháp luật hay pháp luật đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan hệ kinh tế của một nền kinh tế thị trường;các quyền và tự do của công dân được tôn trọng và bảo đảm; tính minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình của nhà nước; quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền hành pháp, cần phải được kiểm soát, và tính độc lập của cơ quan tư pháp (nhất là sự độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử).

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm đề cao và có những tư tưởng sâu sắc về NNPQ. Ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách gửi các nước Đồng Minh thắng trận tại Hội nghị Vécxây, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Những tư tưởng thấm đượm các nguyên tắc chung của NNPQ tiến bộ sau đó đã không ngừng được tái khẳng định, bổ sung và phát triển trong tư tưởng của Người cũng như được thể chế trong các quan điểm của Đảng, được hiến định và luật định, đặc biệt là trong Cương lĩnh năm 1930 của Đảng và Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 (có hiệu lực từ 1-1-2014) tiếp tục tái khẳng định các nguyên tắc pháp quyền và việc xây dựng NNPQ theo con đường XHCN: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.(5) Mặc dù theo quan điểm nhà nước do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất (Điều 2), NNPQ mà chúng ta đang xây dựng vẫn chứa đựng điểm chung, đó là có sự kiểm soát về mặt quyền lực nhà nước. Sự kiểm soát ấy được hiểu là giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Một điểm mới trong Hiến pháp 2013 đó là lần đầu tiên cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quyền tư pháp được hiến định rõ ràng và cụ thể: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102)(6). Việc bước đầu có sự phân công rạch ròi và hiến định nguyên tắc kiểm soát có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở nước ta.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng mang đặc trưng cốt lõi của NNPQ nói chung, đó làcông nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3, Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, việc thừa nhận và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong NNPQ XHCN Việt Nam đạt trình độ cao hơn. Về mặt chủ thể của các quyền con người là thuộc về tất cả mọi người, thuộc về nhân dân, và mục tiêu của sự phát triển đó là vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 cho đến bản Hiến pháp mới nhất (Hiến pháp năm 2013), nguyên tắc pháp quyền trong việc thừa nhận, tôn trọng và thực hiện quyền con người luôn được thể hiện rõ nét. Đây cũng là một trong những đặc trưng của bất cứ NNPQ nào trên thế giới. Điều 14 của Hiến pháp 2013 khẳng định:1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14), và “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” (Điều 14)(7).

Nhà nước pháp quyền có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý, điều hành xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhất là một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước pháp quyền là một tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường, đồng thời để định hướng các quan hệ kinh tế thị trường hạn chế những tác động tiêu cực, phát huy những yếu tố tích cực như tính năng động, sáng tạo, tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, cũng như người dân. Chỉ có các nguyên tắc pháp quyền mới có thể giúp cho các quy luật kinh tế vận hành hiệu quả nhưng trên cơ sở hướng tới mục đích phục vụ lợi ích tối đa của đa số các tầng lớp nhân dân trong xã hội chứ không phải thiểu số giới chủ, giới doanh nhân và tầng lớp sở hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. NNPQ cũng chính là một nhà nước định vị vào các giá trị phúc lợi xã hội, quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của những người yếu thế (powerless), đặc biệt là người nghèo, và các nhóm dễ bị tổn thương.

Xu hướng xa rời định hướng XHCN cũng là một trong những thách thức vô cùng lớn mà nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam đang phải đối mặt. NNPQ hơn bao giờ hết chính là một giải pháp hữu hiệu để điều chỉnh nguy cơ “chệch hướng” và những khuyết tật cố hữu của một nền kinh tế thị trường. Việc hoàn thiện một NNPQ phụ thuộc rất lớn vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới và tăng cường tính độc lập của cơ quan tư pháp, cải cách không ngừng nền hành chính theo hướng cởi mở, minh bạch và chịu trách nhiệm giải trình. Đồng thời, NNPQ được hình thành dựa trên nỗ lực, cam kết mạnh mẽ của đội ngũ lãnh đạo và quản lý nói riêng, cũng như cán bộ, công chức nói chung, với tính cách là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách.

Nhà nước pháp quyền trong một nền kinh tế thị trường luôn có sự đề cao đặc biệt của nhà nước, lực lượng thị trường (các doanh nghiệp và các quan hệ kinh tế thị trường,...) và tổ chức xã hội dân sự. Trong đó, vai trò đặc biệt quan trọng của nhà nước đó là bằng công cụ pháp luật và thông qua pháp luật, điều tiết nền kinh tế, cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng thị trường (vốn luôn có xu hướng lấy lợi nhuận làm đầu và lấy các quan hệ kinh tế chi phối toàn bộ các quan hệ khác và mọi mặt của đời sống xã hội) với các tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân (là cầu nối, người giám sát và bảo vệ trực tiếp các quyền và lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân). Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội không chỉ góp phần hiệu quả vào việc giám sát quá trình thực thi chính sách, giảm tác động tiêu cực của các lực lượng thị trường, mà điều quan trọng đó chính là việc giúp tăng cường năng lực quản trị nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, mà còn giúp trao quyền và tăng cường sự hưởng thụ và thực hiện các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những tiền đề quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cần tăng cường năng lực thực thi và giám sát việc thực thi quá trình chính sách, cùng với việc tăng cường các cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước hiệu quả (như Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội…).

Trong một xã hội dựa trên kinh tế thị trường, xu hướng lạm quyền và vi hiến của cơ quan hành chính - nhà nước (trong việc thực thi quyền hành pháp) là rất rõ rệt. Vì vậy, NNPQ chỉ có thể được tổ chức và hoạt động theo chiều tích cực đối với hệ thống kinh tế thị trường và phát triển bền vững xã hội nếu như có các cơ chế tương đối độc lập giúp cho nó vận hành hiệu quả. Tăng cường thẩm quyền, năng lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp là một đòi hỏi vô cùng cấp thiết. Kinh nghiệm khu vực và quốc tế về tính hiệu quả của một số mô hình đặc trưng về NNPQ đề cao tính tối cao của Hiến pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật của các cơ quan nhà nước và mỗi công dân, vai trò độc lập và tối cao của cơ quan tư pháp trong bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng một mô hình NNPQ phù hợp với điều kiện văn hóa, lịch sử, chính trị,… của một nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam hiện nay.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2014

(1)Tại Hội nghị quốc tế về “Nhà nước pháp quyền” của các nước sử dụng tiếng Pháp, tổ chức tại Benin (Bê-nanh) vào tháng 9/1991, với sự tham dự của các nhà luật học và lập pháp của trên 40 nước, đã lần đầu tiên đưa ra một cách hiểu tương đối chung nhất về NNPQ như sau: “NNPQ là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người đều được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. NNPQ có nghĩa vụ tôn trọng giá trị của con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. NNPQ phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công dân”. Xem: http://democratie.francophonie.org.

(2) Report of the Secretary-General on the Rule of Law and Transitional Justice in Conflict and Post-Conflict Societies, (S/2004/616), http://www.un.org.

(3) Nicholas Booth (2010),  Quan điểm quốc tế về Nguyên tắc pháp quyền, bài tham luận HTQT “Pháp quyền, Quản trị tốt và Chống Tham nhũng”, Hà Nội 7-11-2010, Kỷ yếu Hội thảo, Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

(4) Xem Palekar, S. Comparative Politics and Government,  64-65 (PHI Learning 2009).

(5), (6), (7) Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam, http://www.vietlaw.gov.vn

 

TS Hoàng Văn Nghĩa

Viện Nghiên cứu Quyền con người,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền