Trang chủ
Thứ năm, 06 Tháng 1 2022 22:00
13227 Lượt xem

Một số tiếp cận mới của Đại hội XIII về xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam

(LLCT) - Quan điểm, cách tiếp cận của Đảng về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam thường xuyên vận động, đổi mới, thể hiện qua Cương lĩnh, văn kiện đại hội, các nghị quyết và thực tiễn lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều vấn đề mới, đặc biệt là các tiếp cận mới về xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam. 

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII - Ảnh: dangcongsan.vn

Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện các tiếp cận mới về xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam, cụ thể là: Đại hội dành nhiều hơn dung lượng nói về hệ thống chính trị, với nhiều quan điểm mới. Điều đó xuất phát từ điều kiện lịch sử đã chín muồi và những thách thức mới của thời đại đang đặt ra. Đó là: bối cảnh lịch sử những năm đầu của thập niên thứ ba, thế kỷ XXI, đường lối đổi mới đã thực hiện được 35 năm, hầu hết các mục tiêu ban đầu của đường lối đổi mới đề ra (1986) đã thực hiện đạt và vượt; tròn 30 năm tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa, bản lĩnh cách mạng của một đảng cầm quyền đã thể hiện rõ; 30 năm nước ta thực hiện Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và 10 năm thực hiện Cương lĩnh  (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; thế giới và đất nước đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với rất nhiều thời cơ và thách thức...

Tại Đại hội XIII, Đảng có thời gian và điều kiện lịch sử để nhìn nhận lại con đường, mô hình phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII có nhiệm vụ quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm, 10 năm và tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ nhất, chủ đề Báo cáo chính trị tại Đại hội là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(1). Như vậy, so với chủ đề của các Đại hội gần đây (X, XI, XII), Đại hội lần này đã đặt vấn đề xây dựng Đảng song song và đồng thời với xây dựng hệ thống chính trị, gắn bó chặt chẽ xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Điều này cho thấy, Đảng ta có cách tiếp cận mới về xây dựng Đảng, toàn diện hơn, hợp lý hơn, vì Đảng là một bộ phận hạt nhân của hệ thống chính trị Việt Nam. Nếu không xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh thì việc xây dựng Đảng cũng không thể thành công và ngược lại.

Thứ hai, một số nội dung quan trọng, mới, rõ ràng và cụ thể hơn về xây dựng hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị.

Hệ thống chính trị là một tổ hợp có tính chỉnh thể, bao gồm các thể chế chính trị (tổ chức chính trị, nhà nước, chính trị - xã hội), được phân bổ theo một cơ cấu chức năng nhất định, vận hành theo những cơ chế, quan hệ và nguyên tắc cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị mà trung tâm là quyền lực nhà nước. Những quan điểm mới của Đại hội XIII như sau:

Đại hội nhấn mạnh thực hiện toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị. Tất cả mọi vấn đề, từ tổ chức bộ máy, các mối quan hệ, các cơ chế, đến các nguyên tắc vận hành... luôn được nhìn nhận, tiếp cận một cách toàn diện, đồng bộ.

Về tổ chức bộ máy (các thể chế chính trị của hệ thống chính trị):

Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quan điểm về xây dựng Nhà nước của Đảng đã được cụ thể hóa, với những nội dung và nguyên tắc của nhà nước pháp quyền Việt Nam, gắn chức năng kiến tạo phát triển với nhà nước pháp quyền trong chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”(2). Quan điểm mới ở Đại hội XIII là xác định rõ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị: “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(3).

Đại hội đã cụ thể hóa các nguyên tắc pháp quyền: Đại hội “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(4).

Trong bộ máy nhà nước, đặt nhiệm vụ hàng đầu là đổi mới tổ chức và hoạt động, đặc biệt là tính chuyên nghiệp của Quốc hội, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”(5).

Trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội nói riêng, những khoảng trống về lý luận, những hạn chế về thực tiễn tổ chức và hoạt động đều được Đại hội thẳng thắn chỉ ra, đó là: cơ chế bảo hiến, chất lượng ban hành luật, tính chuyên nghiệp của Quốc hội và hiệu lực, hiệu quả của giám sát tối cao.

Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Đại hội tập trung vào những vấn đề, cho đến nay còn nhiều lúng túng, đó là: tính phục vụ, tính chuyên nghiệp, năng lực kiến tạo phát triển, năng lực quản lý vĩ mô; đi kèm với những điều đó là năng lực phân cấp, phân quyền; năng lực tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với từng loại lãnh thổ, địa bàn dân cư; năng lực xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cải cách phân cấp ngân sách theo hướng bảo đảm sự chủ động cho ngân sách địa phương... Đại hội nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành”(6).

Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

Đại hội chủ trương thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, hướng tới chính phủ số, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp, “chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”(7).

Trong nhiệm vụ thứ 10 phát triển kinh tế - xã hội, ngoài nội dung tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, Đại hội nhấn mạnh “đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính”(8)

Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Nội dung mới trong Văn kiện Đại hội XIII là tập trung xây dựng Đảng về đạo đức và đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, có 5 nội dung mới: Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị (Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị); thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương); coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu gương; nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày.

Để đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức, Đại hội chủ trương tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức “hai bộ máy”, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người... đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền dân chủ XHCN.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị, trên cơ sở tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp ủy là chủ tịch ủy ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở những nơi có điều kiện.

Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.

Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi. Trong đó, tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Có chế tài để phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ luật đảng. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cách tiếp cận mới ở Đại hội XIII là cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện. “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi... Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của Đảng”(9). Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực cầm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tinh thần đổi mới phương thức lãnh đạo được Đại hội nhấn mạnh, một mặt là đổi mới cách thức ban hành, triển khai các nghị quyết của Đảng, quy phạm hóa các hoạt động sinh hoạt Đảng, thực chất đó là vai trò của tập thể lãnh đạo và phải bảo đảm thực sự dân chủ; trên cơ sở đó là phân công cá nhân phụ trách (quản lý), trong đó quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm người đứng đầu. Thể hiện rõ tính tập trung, thống nhất của hoạt động quản lý.  

Về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội: Đại hội XIII nêu quan điểm mới: Mặt trận Tổ quốc là nòng cốt chính trị thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cụ thể hóa vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các tộc người, các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội dành một sự chú ý rõ ràng đến “phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng”(10). Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội.

Các cơ chế và mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị 

Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, hoàn thiện, tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy nhà nước, trong hệ thống chính trị và nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, đảng viên. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng. Nắm vững và xử lý 10 mối quan hệ lớn. Trong các mối quan hệ lớn đã nêu từ Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011, quan hệ thứ 5, “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”(11) là mối quan hệ rất cơ bản mới được đưa vào Văn kiện Đại hội XIII, cần được nghiên cứu làm rõ và xử lý tốt.

Về các nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị

Văn kiện lần này không nêu các nguyên tắc mới, nhưng đưa ra các quan điểm chỉ đạo. Có 5 quan điểm chỉ đạo, được coi như là các nguyên tắc, “đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn”(12). Các quan điểm này định hướng cơ bản cho việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị: 

Quan điểm 1, “4 kiên định”: (1) Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; (2) kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; (3) kiên định đường lối đổi mới của Đảng; (4) kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm 2, sắp xếp đúng vị trí các vấn đề: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia; phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Quan điểm 3, phát huy sức mạnh tinh thần dân tộc, phẩm chất con người Việt Nam, sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị: Đặc biệt chú ý trong quan điểm này là khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây chính là khơi dậy động lực vô cùng to lớn để thực hiện các mục tiêu mà Đại hội vạch ra.

Quan điểm 4, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Trong quan điểm này, tính chất, quy mô của hội nhập quốc tế được nhìn nhận sâu sắc: chủ động, tích cực, toàn diện và sâu rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

Quan điểm 5, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vai trò của hệ thống chính trị: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một yếu tố mang tính điều kiện cho sự thành công của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới hệ thống chính trị. “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(13).  Vì vậy, Đại hội cũng khẳng định cách tiếp cận mới, đẩy mạnh và mở rộng cuộc đấu tranh này. Đại hội xác định hai nội dung mới trong chống tham nhũng được nhấn mạnh là từng bước mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài Nhà nước, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng và đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập, có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác.

Cũng cần nhấn mạnh là, các tiếp cận mới về xây dựng hệ thống chính trị được đề ra tại Đại hội XIII, không chỉ phản ảnh những nhu cầu phát triển nội tại của đất nước, dựa trên những thành tựu hơn 35 thực hiện đường lối đổi mới, mà còn phản ánh, cập nhật những đòi hỏi của thời đại, đặc biệt là thời đại công nghệ 4.0, yếu tố công nghệ đã làm thay đổi phương thức tạo ra của cải nói riêng, phương thức phát triển của nhân loại nói chung. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ số, xã hội số, nhà nước kiến tạo phát triển, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

Có nhiều quan điểm mới của Đại hội XIII về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, trên đây bài viết chỉ nêu một số quan điểm nổi bật, có sự phát triển mới về cách tiếp cận và nội dung so với các đại hội trước.

__________________

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 57, 284, 174, 175, 175, 177, 54, 284, 199, 168, 119, 109.

(13) Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam năm 2020 là 36/100; xếp hạng 104/180; giảm 01 điểm so với năm 2019. Chỉ số trung bình của ASEAN là 42/100.

GS, TSKH PHAN XUÂN SƠN

Viện Chính trị học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền