Trang chủ    Cùng bạn đọc    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng    Các đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Thứ hai, 14 Tháng 6 2021 09:43
26806 Lượt xem

Các đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

(LLCT) - Xác định các đột phá chiến lược trong từng giai đoạn phát triển đất nước có ý nghĩa quan trọng, là đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được điều đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác định ba đột phá chiến lược; Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục bổ sung và phát triển. Bài viết đưa ra định nghĩa, làm rõ sự kế thừa có bổ sung, phát triển của Đại hội XIII và một số điều kiện thực hiện thành công các "các đột phá chiến lược".

Từ khóa: đột phá chiến lược, Văn kiện Đại hội XIII.

1. Khái niệm “đột phá chiến lược”

Cụm từ đột phá có thể được hiểu với nghĩa là danh từ, động từ và cả tính từ. Là danh từ, các đột phá có nghĩa là các khâu, lĩnh vực, nội dung, vấn đề rất quan trọng, cần tác động mạnh. Là động từ, đột phá có nghĩa là “chọc thủng”, “phá vỡ”, vượt qua những giá trị hiện hữu, thông thường hiện tại, để tạo ra những biến chuyển mới, mạnh mẽ, có ý nghĩa quan trọng. Là tính từ, đột phá có nghĩa là thay đổi trạng thái hiện tại, tạo ra những thay đổi vượt trội, bứt phá, những thành tựu có tính chất nhảy vọt. Dù hiểu theo cách nào, đột phá mang ý nghĩa của tác động mạnh, tác động vào khâu có ý nghĩa then chốt, quyết định, quan trọng và tạo ra thành công có tính nhảy vọt.

Chiến lược cũng có thể hiểu theo hai nghĩa: danh từ hoặc tính từ. Với nghĩa danh từ, chiến lược được xem như là kế hoạch để thực hiện mục tiêu nào đó như “chiến lược phát triển kinh tế”. Với nghĩa tính từ, chiến lược hàm ý rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với mục tiêu.

“Đột phá chiến lược” ở đây được hiểu như là một danh từ, là các khâu, vấn đề vừa mang tính đột phá, vừa mang tính chiến lược.

Như vậy, “đột phá chiến lược” của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định là các yếu tố mang tính “đột phá”, nghĩa là khi tác động vào các yếu tố này sẽ tạo ra sự chuyển biến, thay đổi mạnh mẽ, bước ngoặt theo chiều hướng tích cực và góp phần thực hiện thành công, nhanh chóng mục tiêu chiến lược.

Với ý nghĩa như vậy, trong từng giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia cần chọn cho mình những khâu đột phá chiến lược phù hợp để tập trung nguồn lực thực hiện, thúc đẩy tiến trình đạt được mục tiêu chiến lược của mình. Việc xác định “đúng” và “trúng” các khâu đột phá chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự giàu có, hưng thịnh của quốc gia.

2. Quan điểm về các đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng - Sự kế thừa và bổ sung 

Quan điểm về các đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kế thừa, có bổ sung các đột phá chiến lược trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020” của Đảng.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 xác định 3 đột phá chiến lược đó là: (i) hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; (iii) xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn(1).

Các đột phá chiến lược này được tiếp cận từ nhận thức và đánh giá về các điểm nghẽn cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn vừa qua. Việc thực hiện các đột phá chiến lược này đã bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận. Tuy vậy, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta cho thấy, quá trình tổ chức thực hiện các đột phá chiến lược này còn nhiều bất cập nên chưa giải quyết triệt để các điểm nghẽn đang cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển đất nước. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện, cơ cấu, số lượng, chất lượng nguồn nhân lực chậm được cải thiện và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chủ yếu ở lĩnh vực giao thông đường bộ, chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính kết nối... Do vậy, trong thời kỳ tới, các đột phá chiến lược này vẫn cần được tiếp tục triển khai, tuy nhiên cần được bổ sung phù hợp với bối cảnh và tình hình mới trong nước cũng như quốc tế. Cụ thể:

- Đối với đột phá chiến lược “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(2). Rõ ràng, quan điểm về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII thống nhất với các kỳ đại hội trước, đó là hoàn thiện theo hướng đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; đồng thời, khi nói đến thể chế kinh tế thị trường là nói đến vai trò của Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế, theo đó thị trường thực hiện chức năng phân bổ nguồn lực, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, tạo những điều kiện vĩ mô thuận lợi để thị trường hoạt động. Tuy nhiên, so với chiến lược phát triển - kinh tế xã hội 2011-2020, đột phá chiến lược về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII chuyển trọng tâm từ “tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” sang “thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ”.

Thực tế trong giai đoạn vừa qua, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam đã thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam năm 2019 đạt 55 điểm, gần gấp 2 lần năm 1997 với 35 điểm, chứng tỏ thị trường, với tư cách là chủ thể trong thể chế kinh tế thị trường hoạt động ngày càng hiệu quả. Chỉ số tự do kinh tế cao chứng tỏ tính bình đẳng của các chủ thể trong nền kinh tế cũng đang ngày càng được cải thiện (Biểu đồ 1).

Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính ở Việt Nam ngày càng được cải thiện, thể hiện ở chỉ số về sự hài lòng của người dân, tổ chức về tiếp cận dịch vụ, thủ tục hành chính; việc công chức trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính cũng như việc tiếp nhận, giải quyết, góp ý, phản ánh kiến nghị của người dân tương đối cao. Báo cáo SIPAS 2017 cho thấy, chỉ số hài lòng về tiếp cận dịch vụ công của người dân và các tổ chức tương đối cao ở các chỉ số thành phần, hầu hết các chỉ số đều đạt trên 70% (Bảng 1).

Đối với chỉ số hài lòng về thủ tục hành chính, SIPAS 2017 đo lường việc giải quyết thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với 5 tiêu chí: (1) Thủ tục hành chính được niêm yết công khai, đầy đủ; (2) thủ tục hành chính được niêm yết công khai, chính xác; (3) thành phần hồ sơ mà người dân, tổ chức phải nộp là đúng quy định; (4) phí/lệ phí mà người dân, tổ chức phải nộp là đúng quy định; (5) thời hạn giải quyết (tính từ ngày nộp hồ sơ đến ngày nhận kết quả) là đúng quy định. Theo đó, chỉ số hài lòng về yếu tố thủ tục hành chính của tỉnh cao nhất là 97,54%; của tỉnh thấp nhất là 57,59%; trung bình cả nước là 84,20%.

Về chỉ số hài lòng công chức, SIPAS 2017 đo lường chất lượng của đội ngũ công chức thông qua các tiêu chí về thái độ giao tiếp, sự lắng nghe, phản hồi của công chức, thái độ hướng dẫn, phục vụ cũng như việc tuân thủ đúng quy định trong công việc. Chỉ số này mức trung bình cả nước đạt 81,56%.

Đối với chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức về kết quả cung ứng dịch vụ công, trung bình cả nước là 81,56%.

Như vậy, 2 điểm nghẽn về cải cách hành chính và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng đã dần được khắc phục. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2020, thị trường các yếu tố sản xuất, trong đó trọng tâm là quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ đang là những điểm nghẽn chưa giải quyết được của nền kinh tế. Nhiều mâu thuẫn phát sinh trong giải quyết quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp trong thu hồi đất, mua bán quyền sử dụng đất hay sự yếu kém về năng lực khoa học, công nghệ. Báo cáo khoa học, công nghệ 2015 cho thấy, tốc độ đổi mới sáng tạo của Việt Nam giai đoạn 2011-2014 đạt 10,68% nhưng tập trung vào một số lĩnh vực như công nghệ thông tin, viễn thông, tài chính, ngân hàng, dầu khí, hàng không, còn trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu hơn thế giới từ 2 đến 3 thế hệ.

Từ thực tiễn đó, Đại hội XIII của Đảng đặt trọng tâm trong đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đó là tập trung vào thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học công nghệ. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là không quan tâm đến khía cạnh khác, mà cần tiếp tục phát huy những điểm đã làm được, hoàn thiện những điểm làm chưa tốt, tập trung nguồn lực vào điểm nghẽn, kém nhất trong giai đoạn trước để có thể xây dựng một thể chế kinh tế thị trường thật sự hiện đại, hội nhập ở giai đoạn phát triển tiếp theo.

- Đột phá về nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ. Văn kiện Đại hội XIII kế thừa nội dung về đột phá nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, có bổ sung: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam”(3). Nhìn lại 3 đột phá giai đoạn 2011 -2020 có thể thấy rõ, các đột phá tập trung vào lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực có mối quan hệ trực tiếp tới kinh tế là nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ. Các lĩnh vực khác, đặc biệt là văn hóa, mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp nhưng lại có tác động mạnh, bền vững đến tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức. Vai trò quan trọng của văn hóa được xác định từ Đại hội VIII của Đảng, ngày càng được khẳng định, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội. Theo đó, chúng ta hướng tới xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời lần đầu tiên khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(4), đồng thời là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc(5). Không thể phủ nhận, kinh tế là điều kiện, là cơ sở của văn hóa, ngược lại văn hóa là nhân tố có tác động mạnh tới kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển một cách vững chắc. Trong thời gian qua, chúng ta đã quá chú trọng tới phát triển kinh tế mà chưa coi trọng đúng mức tới phát triển văn hóa. Trong khi kinh tế có sự tăng trưởng khá nhưng văn hóa, đạo đức xã hội có những chỗ xuống cấp, quan hệ ứng xử giữa con người với con người có khi trở nên khô cứng, vô cảm,... Thực tế này đặt ra yêu cầu xác định đột phá chiến lược cần bổ sung thêm nội dung văn hóa. Đó là: phát huy tinh hoa văn hóa Việt Nam, giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam; khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng phát triển thịnh vượng, giữ gìn bản sắc văn hóa và tiếp thu giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của nhân loại. Văn hóa sẽ góp phần kiến tạo con người Việt Nam vừa có tài vừa có đức.

- Đột phá về hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Ngoài việc kế thừa một số nội dung cốt lõi trong đột phá về hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 đó là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”(6), Văn kiện Đại hội XIII bổ sung thêm một số điểm: “trọng tâm là ưu tiên hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và các địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số”. Sự bổ sung này là phù hợp với những điều kiện và bối cảnh mới của thời đại, đó là biến đổi khí hậu và sự phát triển của nền tảng kinh tế số.

3. Điều kiện thực hiện thành công các đột phá chiến lược

Một là, thống nhất nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị

Toàn hệ thống chính trị cần nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện các đột phá chiến lược đối với sự thành công của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030. Trên cơ sở đồng thuận về nhận thức, ý chí, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị sẽ cụ thể hóa thành kế hoạch hành động để thực hiện các đột phá chiến lược phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được phân công. Trong công tác, mỗi tổ chức cần thấm nhuần các đột phá chiến lược và gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Các đột phá chiến lược cần được phổ biến sâu rộng trong toàn bộ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp để nắm vững, triển khai trong thực tiễn công tác.

Hai là, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước. Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, là vấn đề có tính nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn. Vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước được xem là trụ cột của cơ chế vận hành trong hệ thống chính trị; Ðảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng là nhân tố bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với bản chất là pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh hành vi các quan hệ xã hội và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Với vai trò đó, việc tổ chức, thực hiện các đột phá chiến lược phải được đặt dưới sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát thường xuyên, sát sao của Đảng.

Ba là, bảo đảm đủ nguồn lực thực hiện

Nguồn lực tổ chức thực hiện các đột phá chiến lược không chỉ bao gồm nguồn lực tài chính mà còn bao gồm nguồn lực về con người, cơ chế chính sách... Quá trình thực hiện phải tổ chức kiểm tra, giám sát hiệu quả sử dụng nguồn lực, gắn quyền hạn với trách nhiệm của cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý. Đối với các nhiệm vụ do thị trường thực hiện, Nhà nước phải ban hành đầy đủ khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách, bảo đảm thuận lợi cho hoạt động của thị trường. Bảo đảm nguồn lực con người và bộ máy quản lý để hỗ trợ hoạt động của thị trường. Mỗi lĩnh vực có thể thành lập các ban hoặc tổ công tác để giám sát và hỗ trợ việc tổ chức thực hiện.

Bốn là, kiểm tra, giám sát và điều chỉnh trong quá trình thực hiện

Kiểm tra, giám sát và điều chỉnh phải là công việc được thực hiện thường xuyên, liên tục ở tất cả các cấp, các cơ quan có liên quan tới thực hiện các đột phá chiến lược. Kiểm tra, giám sát không chỉ nhằm mục đích đánh giá tính tuân thủ của việc thực hiện mà còn góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện. 

Năm là, thường xuyên tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện các đột phá chiến lược

Quá trình thực hiện các nội dung của đột phá chiến lược cần được thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm. Mỗi năm, các mặt hoạt động liên quan đến các đột phá chiến lược cần được đánh giá lại, phân tích kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết. Việc này giúp đánh giá kịp thời, chính xác các công việc đã làm được, các công việc cần phải làm và sự phù hợp trong lộ trình, phương thức thực hiện. Các vấn đề mới nên thực hiện thí điểm trong một thời hạn nhất định và tổ chức tổng kết, đánh giá để xem xét ngừng thí điểm, điều chỉnh hoặc áp dụng chính thức.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2021

(1), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.32, 32.

(2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.220, 220.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.110.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.126.

ThS, NCS Nguyễn Thị Quỳnh Anh

Viện Kinh tế chính trị học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền