Trang chủ    Đào tạo - Bồi dưỡng    Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và một số vấn đề đặt ra trong hội nhập quốc tế
Thứ ba, 27 Tháng 3 2018 09:10
14212 Lượt xem

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và một số vấn đề đặt ra trong hội nhập quốc tế

(LLCT) - Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) là một trong những nhân tố quyết định trực tiếphiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.Do vậy, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực thi công vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức công vụ cho đội ngũ CBCC, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và xây dựng đất nước, ngày 20-11-1996, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 874/QĐ-TTg về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước, trong đó nêu rõ mục tiêu, đối tượng, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD). Tiếp đó, ngày 7-5-2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005; ngày 4-8-2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trong đó xác định hệ thống quản lý; các cơ sở ĐTBD CBCC; phân công, phân cấp ĐTBD CBCC...

Nghị quyết Trung ương 9 khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 đã xác định: “Mục tiêu cần đạt được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc...”. Để đạt được mục tiêu đề ra, Trung ương Đảng yêu cầu: “Nghiên cứu[1] [1][1]xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế” với nhiệm vụ “Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác ĐTBD cán bộ theo quy hoạch, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo quản lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới”.

Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020 đã xác định chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ này, ngày 12-8-2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1374/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015 nhằm tạo điều kiện cho hoạt động này được triển khai thống nhất, hiệu quả, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, phục vụ cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội.

Hoạt động ĐTBD CBCC đã dần đi vào nền nếp, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ CBCC, đáp ứng yêu cầu cơ bản của công cuộc cải cách hành chính. Theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ, trong 5 năm (2006-2010), các bộ, ngành, địa phương đã cử đi ĐTBD được 3.948.773 lượt cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, ĐTBD CBCC là 2.598.965 lượt người. Trung bình hàng năm, có gần 800 nghìn lượt cán bộ, công chức, viên chức, riêng khối CBCC là trên 500 nghìn lượt người(1). Trong giai đoạn 2011-2015, cả nước đã tiến hành ĐTBD cho hơn 3.230 nghìn lượt CBCC; khối bộ, ngành là hơn 889 nghìn lượt người và khối các tỉnh, thành phố là 2.344 nghìn lượt người. Trong số đó, có 456 nghìn lượt người được ĐTBD về lý luận chính trị; 489 nghìn lượt người được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Về đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, cả nước có hơn 43 nghìn lượt CBCC được cử đi ĐTBD ở nước ngoài, tập trung vào hai đối tượng là CBCC lãnh đạo, quản lý là 23 nghìn lượt người (53%) CBCC tham mưu, hoạch định chính sách và CBCC nguồn quy hoạch lãnh đạo, quản lý là gần 11 nghìn lượt người (27%). Để nâng cao chất lượng đào tạo, các bộ, ngành, địa phương cũng cử gần 15 nghìn lượt giảng viên các cơ sở ĐTBD đi ĐTBD ở nước ngoài(2).

Trước yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước và hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 163/QĐ-TTg phê duyệt Đề án ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025. Đề án đã đề ra mục tiêu nâng cao toàn diện chất lượng, hiệu quả hoạt động ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; bảo đảm nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ được giao; ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; gắn ĐTBD với nhu cầu và quy hoạch sử dụng lâu dài. Đề án đã có cơ chế khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức nữ, người dân tộc thiểu số; cán bộ, công chức, viên chức công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn học tập nâng cao trình độ, năng lực làm việc.

Từ thực tiễn cho thấy, để thực hiện được các yêu cầu nêu trên, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐTBD, cần nhận rõ những hạn chế, vướng mắc, từ đó xác định rõ và chính xác những vấn đề cần giải quyết, cụ thể là:

Một là, nhận thức về vai trò, nhiệm vụ của hoạt động ĐTBD; trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng CBCC trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả ĐTBD chưa cao. Mặt khác, nhận thức về trách nhiệm học tập suốt đời, không ngừng nâng cao năng lực làm việc, năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ ĐTBD còn hạn chế; thiếu cơ chế khuyến khích ĐTBD, học và tự học để đáp ứng yêu cầu trình độ theo quy định, nâng cao năng lực làm việc.

Hai là, để hướng dẫn tổ chức thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức về ĐTBD CBCC, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quản lý về ĐTBD CBCC, tuy nhiên các quy định còn chồng chéo,đan xen lẫn nhau giữa quy định cũ và mớinên quá trình triển khai gặp lúng túng. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5-3-2010 của Chính phủ về ĐTBD công chức chưa có quy định điều chỉnh ĐTBD cán bộ. Hơn nữa, Nghị định số 18/2010 có một số quy định chưa hợp lý về điều kiện công chức được cử đi học sau đại học; về chế độ phụ cấp trong thời gian ĐTBD; về thẩm quyền phê duyệt, ban hành chương trình, tài liệu; về đánh giá chất lượng ĐTBD. Các quy định ĐTBD về lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, quốc phòng, an ninh còn thiếu thống nhất, do đó việc thực hiện chưa thực sự hiệu quả.

Ba là, mặc dù rất chú trọng việc đổi mới nội dung chương trình; tổ chức biên soạn các tài liệu ĐTBD theo ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, theo chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng, cấp sở, UBND cấp tỉnh, huyện...; theo yêu cầu công việc và vị trí việc làm... nhưng về cơ bản nội dung chương trình vẫn nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao kỹ năng thực thi công vụ của CBCC trong bối cảnh hội nhập quốc tế.Nội dung chương trình ĐTBD CBCC chưa sát thực tế, còn trùng lắp, gây lãng phí và chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐTBD. Chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích CBCC học tập và tự học, để nâng cao trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Do vậy, chất lượng đội ngũ CBCC chưa nâng lên tương xứng với hoạt động ĐTBD; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực của CBCC chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và đổi mới đất nước.

Bốn là, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của đội ngũ giảng viên các cơ sở ĐTBD CBCC còn có những hạn chế, bất cập; chưa được thường xuyên cập nhật, nâng cao năng lực, trình độ và phương pháp sư phạm. Việc huy động đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là những nhà lãnh đạo, quản lý các cấp có nhiều kinh nghiệm gặp nhiều khó khăn do chưa có quy chế quy định trách nhiệm của họ đối với việc tham gia giảng dạy, cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp và trao đổi kinh nghiệm quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ phù hợp với bộ, ngành, địa phương.

Năm là, về quản lý công tác ĐTBD CBCC. Hiện nay, việc phân công, phân cấp quản lý và tổ chức ĐTBD CBCC đã xác định khá rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan quản lý và cơ sở ĐTBD từ Trung ương tới địa phương. Trong đó, Bộ Nội vụ là đầu mối quản lý tập trung, thống nhất khung chương trình ĐTBD công chức; Ban Tổ chức Trung ương quản lý công tác ĐTBD cán bộ và ĐTBD lý luận chính trị cho CBCC... Tuy nhiên, sau khi Học viện Hành chính quốc gia chuyển từ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về thuộc Bộ Nội vụ, một số vấn đề về quản lý và tổ chức ĐTBD công chức và cán bộ chưa được điều chỉnh kịp thời. Ở cấp tỉnh, giữa UBND (Sở Nội vụ) và Tỉnh ủy (Trường Chính trị tỉnh) cũng có một số vấn đề bất cập cần có sự điều chỉnh cho hợp lý hơn. Tổ chức hệ thống quản lý và cơ sở ĐTBD CBCC còn phân tán, thiếu thống nhất, chưa phù hợp với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ ĐTBD, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất trong ĐTBD CBCC.

Sáu là, công tác đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc lấy ý kiến khảo sát của người học sau khi kết thúc khóa ĐTBD; hiện vẫn chưa có bộ tiêu chí bảo đảm và đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Bảy là, cơ sở vật chất phục vụ và kinh phí dành cho hoạt động ĐTBD còn hạn chế, vướng mắc. Cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD chưa phù hợp với tình hình thực tế và bảo đảm sự chủ động của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng CBCC; hiệu quả sử dụng kinh phí ĐTBD chưa cao.

Tám là, về hợp tác quốc tế trong ĐTBD CBCC hiện nay chủ yếu mới dừng lại việc cử CBCC tham gia các khóa ĐTBD và tổ chức các đoàn đi học tập, khảo sát ở nước ngoài, nhưng hiệu quả đạt được đang là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Việc huy động các tổ chức, cá nhân có năng lực, uy tín nước ngoài tham gia giảng dạy cho các khóa ĐTBD CBCC, đặc biệt đối với các khóa cập nhật kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nâng cao năng lực hội nhập còn hạn chế.

2. Những vấn đề đặt ra

Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD CBCC, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, cần tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:

- Xác định các yêu cầu của hội nhập quốc tế đặt ra đối với hoạt động ĐTBD CBCC ở nước ta hiện nay đồng thời trên 2 phương diện: 1) Các yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của đất nước, trong đó có đội ngũ CBCC; 2) Những yêu cầu và tác động trực tiếp của hội nhập quốc tế đến công tác quản lý và tổ chức các hoạt động ĐTBD CBCC.

- Hoàn thiện hệ thống thể chế ĐTBD CBCC đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.Bổ sung các quy định cụ thể về mục tiêu, chế độ đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ và chế độ bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý. Phân công, phân cấp hợp lý công tác quản lý và tổ chứcĐTBD CBCCnhằm tạo cơ chế năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức và bản thân công chức trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Thu hút các viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo có năng lực tham gia,hình thành cơ chế cạnh tranh trong tổ chức ĐTBD CBCC.

- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung chương trình ĐTBD CBCCvề quản lý nhà nước, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, quốc phòng- an ninh, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Quán triệt yêu cầu ĐTBD CBCC không chỉ là trang bị kiến thức mà cơ bản là phát triển năng lực tư duy, năng lực sáng tạo trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.Việc đổi mới nội dung chương trình ĐTBD cần phải bắt đầu từ việc điều tra, khảo sát nhu cầu của vị trí công việc, từ đólựachọn những nội dung kiến thức, kỹ năng cần thiết để tổ chức biên soạn chương trình ĐTBD cho từng đối tượng CBCC. Đổi mới nội dung, chương trình theo hướng cập nhật hóa, hiện đại hóa, chú trọng nâng cao kỹ năng, năng lực hoạt động và giáo dục phẩm chất đạo đức công chức; khẩn trương sửa đổi, bổ sung các chương trình, nội dung trùng lặp, không thiết thực, gây lãng phí nguồn lực.

Đối với nội dung chương trình ĐTBD về quản lý nhà nước phải sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Đối với chương trình ĐTBD lý luận chính trị, cần rà soát, cắt bỏ các nội dung trùng lặp, cập nhật, bổ sung những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

- Đổi mới phương pháp và hình thức ĐTBD CBCC; áp dụng phương pháp dạy và học tích cực cho học viên theo hướng lấy học viên là trung tâm, nêu vấn đề để học viên thảo luận, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn theo hướng dẫn của giảng viên, báo cáo viên để sau khóa ĐTBD có thể vận dụng được ngay vào công việc.

- Xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bao gồm các tiêu chí đánh giá: mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình và tiêu chuẩn ngạch; chức vụ lãnh đạo, quản lý; vị trí việc làm. Năng lực đội ngũ giảng viên. Sự phù hợp của phương pháp ĐTBD với nội dung chương trình ĐTBD. Việc tiếp thu và vận dụng kiến thức của người học vào thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao. Năng lực tổ chức ĐTBD của các cơ sở ĐTBD.       

Trong đó, cần có những ưu tiên khi xây dựng các tiêu chí đánh giá việc tiếp thu và vận dụng kiến thức của người học vào thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao để phù hợp với mục tiêu chung của hoạt động đánh giá là nhằm cung cấp thông tin về mức độ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của CBCC sau khi được ĐTBD. Đồng thời,tổ chức công tác đánh giá chất lượng ĐTBD với nhiều hình thức khác nhau như: đánh giá trong, đánh giá ngoài hoặc thuê cơ quan đánh giá độc lập.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia, các cơ sở ĐTBD của các bộ, ngành; các Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện đáp ứng yêu cầu ĐTBD CBCC trong điều kiện hội nhập quốc tế. Đội ngũ giảng viên phải không ngừng tự học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, vừa là những nhà giáo, nhà khoa học, am hiểu đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn của địa phương, đất nước, nắm bắt được những vấn đề đang đặt ra trong thực thi chính sách, pháp luật; tích cực tổng kết thực tiễn, có khả năng luận giải được những vấn đề  mà thực tiễn đặt ra.

- Nghiên cứu kiện toàn hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC theo hướng tinh gọn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô, hình thức ĐTBD; chú trọng chất lượng đội ngũ giảng viên và viên chức quản lý đủ trình độ, năng lực thực thi nhiệm vụ.Thu hút và tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo, nghiên cứu có đủ năng lực tham gia ĐTBD CBCC. Áp dụng công nghệ thông tin trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch đào tạo, kiểm tra, đánh giá kết quả ĐTBD.Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực đội ngũ công chức quản lý các hoạt động ĐTBD thuộc các bộ, ngành, địa phương[1].

- Đảm bảo kinh phí và đổi mới cơ chế tài chính trong công tác ĐTBD CBCC.Điều chỉnh quy định về đối tượng hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước khi được ĐTBD; sửa đổi quy định về quyền lợi của CBCC được hưởng khi được cử đi ĐTBDcũng như trách nhiệm đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với CBCC. Thu hút và đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với các cơ sở ĐTBD CBCC tương xứng với nhiệm vụ, [1]đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

- Tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong ĐTBD CBCC;đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức hợp tác trong lĩnh vực ĐTBD CBCC như: du học, du học tại chỗ, kết hợp ĐTBD trong nước với học tập, nghiên cứu ở nước ngoài .

__________________________

(1) Chính phủ: Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể CCHCNN giai đoạn 2001-2010 và phương hướng, nhiệm vụ CCHCNN giai đoạn 2011-2020.

(2) Bộ Nội vụ: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-TTg và triển khai Quyết định số 163/QĐ-TTg, ngày 25-1-2016 của Thủ tướng Chính phủ.

 

PGS, TS Nguyễn Minh Phương

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền