Trang chủ    Đào tạo - Bồi dưỡng    Học tập phong cách lý luận Hồ Chí Minh của giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường
Thứ năm, 26 Tháng 7 2018 16:59
2885 Lượt xem

Học tập phong cách lý luận Hồ Chí Minh của giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường

(LLCT) - Phong cách lý luận Hồ Chí Minh là những đặc trưng riêng có, trong cách thức, phương pháp tiếp thu tinh hoa lý luận của phương Đông, phương Tây, đặc biệt là lý luận Mác - Lênin, tạo nên những giá trị riêng về các vấn đề lý luận của Hồ Chí Minh. Những đặc trưng và giá trị trong phong cách lý luận Hồ Chí Minh là một tài sản vô giá, luôn có sức hấp dẫn, là chuẩn mực để giảng viên lý luận chính trị học tập và rèn luyện theo, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nghiên cứu, phát triển lý luận; đấu tranh, tuyên truyền bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.

1. Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ. Trong lĩnh vực lý luận, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà lý luận, nhưng những vấn đề lý luận của Người mang phong cách riêng, giá trị cốt lõi trong cách thức, phương pháp tiếp thu, bổ sung, phát triển làm phong phú tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại và lý luận Mác - Lênin, phù hợp yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những đặc trưng đó là:

- Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tiếp thu, nghiên cứu, tìm ra lý luận mới

 Đây là giá trị nổi bật, xuyên suốt và thống nhất trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Từ những ngày đầu trên hành trình tìm đường cứu nước, việc lựa chọn hướng đi, con đường cách mạng đều cho thấy sự độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Người không giáo điều, rập khuôn, vay mượn nguyên xi cái gì của người khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý cách mạng, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn của đất nước. Theo đó, độc lập ở Người là cách nghĩ, cách làm không lệ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, không giáo điều. “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”(1).  Tự chủ là tự mình làm chủ mọi suy nghĩ và hành động của mình, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự bản thân mình phải thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ không đồng nghĩa với quan niệm siêu hình, hạn chế trong khuôn khổ những tư tưởng lý luận đã có, mà luôn liên hệ với những tư tưởng, lý luận tiến bộ của nhân loại.

Sáng tạo là vận dụng đúng những lý luận chung, lý luận tiến bộ của nhân loại cho phù hợp với cái riêng,  đặc thù của dân tộc Việt Nam. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái gì đã cũ, lỗi thời, không phù hợp với thực tiễn. Sáng tạo là tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những yêu cầu của cuộc sống đặt ra. Cái mới, cái sáng tạo của Hồ Chí Minh là phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội loài người. Cái mới có thể kế thừa cái cũ, bổ sung giá trị mới, làm cho cái mới khác về chất so với cái cũ. Cái mới cũng là cái chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Sự kế thừađó mang tính biện chứng, theo tinh thần: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”(2). Do vậy, những lý luận của Hồ Chí Minh là sự tích hợp tinh hoa tư tưởng lý luận của dân tộc và nhân loại.

- Tư duy mở rộng, lựa chọn những vấn đề lý luận thiết thực với cách mạng Việt Nam

 Trong tư duy của Người luôn hướng tới những vấn đề thiết thực, cụ thể của cách mạng. Trong mọi suy nghĩ và hành động, Người luôn lấy nhu cầu và đặc điểm của thực tiễn dân tộc và xu thế phát triển của thời đại làm định hướng. Trong hành trình đi tìm lý luận cách mạng, tư duy của Người luôn đau đáu tìm xem hiện thực Việt Nam thiếu những gì, để tiếp thu những cái thiết thực, trực tiếp nhất phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai cấp. Ngay từ những năm đầu hoạt động cách mạng, vấn đề tự do và bình đẳng giữa các dân tộc luôn được Hồ Chí Minh xem là điểm xuất phát và động lực để đi tìm chân lý. Hoàn cảnh đất nước đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm ra một lối đi mới, đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Thực tiễn trong nước và các nước chính quốc đã là điểm xuất phát trong tư duy của Hồ Chí Minh để tìm ra lý luận cách mạng của dân tộc.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu từ nhu cầu giải phóng dân tộc Việt Nam và các nước thuộc địa. Trong quá trình đó, Người luôn lựa chọn, tiếp thu những gì cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và dân tộc, từ đó đề ra được đường lối đúng đắn, bước đi thích hợp cho cách mạng. Khi áp dụng lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người luôn quán triệt quan điểm biện chứng, học tập những gì là đúng đắn, đồng thời bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác cho phù hợp với thực tiễn ở nước ta nói riêng và các nước phương Đông nói chung. Vì vậy, ngay từ khi còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã viết: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(3).

- Lý luận luôn xuất phát từ thực tiễn

Sự gắn bó giữa lý luận và thực tiễn là đặc điểm nổi bật trong phong cách tư duy của Hồ Chí Minh và thể hiện rõ trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Người. Tư duy lý luận của Người luôn dựa trên thực tiễn sinh động của Việt Nam để tìm ra lý luận cách mạng, cái đích của lý luận là hướng đến độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc. Ngay từ những ngày đầu đi tìm lý luận cách mạng mới cho dân tộc Việt Nam, Người luôn hướng tư duy vào thực tiễn cách mạng các nước chính quốc và sự khủng hoảng đường lối cứu nước trong nước để tìm ra lý luận cách mạng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những chữ ấy”(4).

Suốt quá trình tìm đường cứu nước đến khi giành được chính quyền, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người luôn chú trọng tổng kết thực tiễn và khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong cuộc hành trình qua các châu lục, từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ Latinh, Người luôn muốn tìm hiểu thực tiễn cuộc sống của nhân dân lao động, bằng việc trực tiếp làm những công việc của họ. Thực tiễn cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa và các nước tư bản đã giúp Người có những nhận thức mới. Đó là những tài liệu sống quý giá, chân thực cho những bài báo tố cáo tội ác của thực dân, là cơ sở để Người viết Bản án chế độ thực dân Pháp. Đồng thời là cơ sở để Người phác họa con đường cách mạng Việt Nam, thể hiện trong các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những dữ liệu thực tế và quá trình nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Người đề ra tư tưởng cách mạng tự lực cánh sinh: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(5). Sau này, Người khẳng định tiếp, một dân tộc cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không coi lý luận về CNXH của chủ nghĩa Mác là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc, mà Ngườiluôn xuất phát từ thực tiễn đất nước để vận dụng lý luận đó phù hợp trong việc xác định hình thức, bước đi, tốc độ phát triển: “tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”(6). Khi vận dụng những kinh nghiệm xây dựng CNXH ở Liên Xô, Người cũng lưu ý phải xuất phát từ thực tiễn, phải nhận thức sâu sắc những đặc điểm riêng của đất nước để lựa chọn kinh nghiệm phù hợp: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(7). Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác để xây dựng lý luận cách mạng cho Việt Nam.

- Đề cao vai trò về chỉ đạo, hướng dẫn hành động thực tiễn cách mạng của lý luận

Kế thừa những tinh túy của triết học Mác - Lênin và đưa vai trò định hướng hành động của lý luận lên tầm cao mới, Hồ Chí Minh quan niệm: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận, phải ra sức thực hành mới là người biết lý luận”(8). Theo đó, Người đề cao vai trò định hướng thực tiễn của lý luận, hoạt động thực tiễn mà không có lý luận dẫn dắt thì sẽ mù quáng, bởi khi đó hoạt động thực tiễn không biết đi theo hướng nào, giống như con tàu giữa biển khơi mù mịt nhưng lại không có la bàn. Mọi nguyên lý của Người đều hàm chứa ý nghĩa chỉ dẫn hành động. Theo Người, cứu nước phải hành động, muốn hành động phải có phương hướng, đường lối. “Không có lý luận cách mạng thì không có cách mạng vận động”(9). Đề cao vai trò định hướng hành động cách mạng của lý luận,  khi viết những vấn đề lý luận, Người chọn lọc những gì cần thiết, cấp bách nhất với cách mạng Việt Nam, chứ không viết một cách giáo điều, sách vở, ồ ạt. Vì vậy, khi viết tác phẩm Đường Cách mệnh- cuốn sách vỡ lòng về lý luận cho các chiến sỹ cách mạng lớp đầu, Người đã trình bày những vấn đề lý luận hết sức cụ thể, thiết thực, thiên về hướng dẫn, chỉ đạo hành động cách mạng hơn là dùng những văn phong uyên bác, hàn lâm. Chính điều này đã quy định đặc trưng về văn phong chính luận của Hồ Chí Minh.

- Văn phong chính luận rất trong sáng, ngắn gọn, giàu hình ảnh, hiệu quả truyền đạt cao

Với phương châm: “lý luận cốt để  áp dụng vào thực tiễn” và soi rọi vào hoàn cảnh một nước thuộc địa, nửa phong kiến, 95% dân số là thất học mù chữ đứng dậy làm cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh tin rằng phải cho lý luận cách mạng thấm sâu vào quần chúng mới có tác dụng dẫn dắt, chỉ đạo hành động cách mạng, nếu “Viết làm gì dài dòng và rỗng tuếch... là quyết không muốn cho quần chúng xem”(10). Điều đó đã quy định cách sử dụng văn phong chính luận của Người. Người chọn cách diễn đạt, ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, trong sáng, sử dụng những hình ảnh sống động, gần gũi với đời sống hàng ngày, phù hợp với lối tư duy bằng hình ảnh của người phương Đông. Qua đó có tác dụng cải tạo tư tưởng của đối tượng nhưng không làm mất đi tính lý luận của nó. Vì vậy, phần lớn những bài viết của Người dưới dạng thư từ, lời kêu gọi, các bài nói chuyện về kinh tế, chính trị, xã hội và đạo đức... cho đồng bào và chiến sỹ, thanh niên, nhi đồng, phụ nữ... Những khái niệm lý luận hàn lâm được thay thế bằng những từ ngữ thông thường, giản dị. Khi diễn tả những vấn đề về cách mạng, mặc dù vấn đề phức tạp nhưng Người luôn chọn lọc những hình ảnh điển hình, khái quát nhất để so sánh, nói lên bản chất hơn là dùng lý luận dài dòng. Hình ảnh “con đỉa hai vòi” khi nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc; hình ảnh “hai cánh của con chim” khi nói về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc; hình ảnh “lý luận như cái tên (hoặc viên đạn), thực hành cũng như cái đích để bắn” khi nói về vị trí vai trò của lý luận với hoạt động thực tiễn... là những minh chứng điển hình.

2. Phong cách lý luận Hồ Chí Minh là tài sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta, luôn có sức hấp dẫn và là bài học đối với tất cả thế hệ, đặc biệt đối với những người làm công tác tư tưởng, lý luận. Đối với giảng viên lý luận chính trị (GVLLCT) ở các nhà trường, họ vừa là người nghiên cứu, phát triển lý luận, vừa là người tuyên truyền lý luận và tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Do vậy, phong cách lý luận Hồ Chí Minh là chuẩn mực để GVLLCT học tập và noi theo, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GVLLCT, hướng đến nâng cao chất lượng giáo dục, nghiên cứu, phát triển lý luận; đấu tranh, tuyên truyền bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng. Thực chất của quá trình này là sự nhận thức đầy đủ những giá trị cốt lõi, những đặc trưng trong phong cách lý luận Hồ Chí Minh và cụ thể hóa vào nhiệm vụ học tập và rèn luyện của mỗi giảng viên.

Trong những năm qua, GVLLCT ở các nhà trường có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo cũng như trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, GVLLCT đã được trang bị  một cách cơ bản, hệ thống những tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng, trực tiếp tác động và hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận khoa học định hướng các giá trị và phát triển nhân cách người học. Trong công tác tư tưởng của Đảng, họ là những chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng, tuyên truyền và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần bảo vệ chế độ XHCN. GVLLCT trong các học viện, trường đại học, cao đẳng là một bộ phận của giới nghiên cứu lý luận, đã và  đang tích cực tham gia nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Đánh giá về thành tựu của công tác tư tưởng, lý luận, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5  khóa IX Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mớivà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mớiđã khẳng định: công tác tư tưởng, lý luận và báo chí đạt được nhiều thành tựu quan trọng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước; làm cho nhân dân ta nhận rõ hơn bản chất và mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi một bước tư tưởng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, lái đất nước đi chệch con đường XHCN... Thành tựu đó, có một phần đóng góp rất lớn của GVLLCT ở các nhà trường.

Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ GVLLCT vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Đó là việc thiếu tâm huyết, trách nhiệm với nghề, không chịu đào sâu suy nghĩ hiểu đến cùng bản chất của các vấn đề lý luận, chưa thường xuyên cập nhật những tri thức mới, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đứng trước các vấn đề lệch lạc của xã hội, các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, nhiều giảng viên còn thờ ơ, bàng quan, trong nội bộ chưa mạnh dạn đấu tranh phê bình và tự phê bình. Cá biệt còn có những giảng viên thiếu mẫu mực, chưa có ý thức tự giác trong tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống. Về năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm của nhiều giảng viên còn chưa đáp ứng yêu cầu giáo dục - đào tạo hiện nay. Biểu hiện ở việc chưa gắn các vấn đề lý luận với thực tiễn xã hội; luận giải các vấn đề còn khô khan, cứng nhắc, máy móc, giáo điều. Bởi vậy, người học chưa được định hướng rõ về tư tưởng, trong nhận thức thiếu nhãn quan và bản lĩnh chính trị, trong hoạt động thực tiễn chưa có phương pháp luận để định hướng hành động.

Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện việc học tập và rèn luyện theo phong cách lý luận Hồ Chí Minh cần tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện Chỉ thị số 05 CT/TW của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhđối với đội ngũ GVLLCT. Phải làm cho mọi giảng viên thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung, yêu cầu của việc học tập và làm theo phong cách lý luận Hồ Chí Minh. Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu cơ bản về phong cách lý luận cho phù hợp với đặc điểm, môi trường, nhiệm vụ công tác của từng giảng viên.

Phong cách lý luận của GVLLCT không hình thành một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Hiện nay, đối tượng người học có trình độ nhận thức, kinh nghiệm thực tiễn, quan hệ xã hội ngày càng mở rộng; các thành tựu về khoa học - công nghệ được ứng dụng vào đời sống, giúp người học được tiếp cận được nhiều thông tin mới, đa chiều. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng nhiều hình thức nhằm gây chia rẽ đoàn kết nội bộ. Trong nước, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận đảng viên và nhân dân đang diễn ra phức tạp. Do vậy, mỗi GVLLCT phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững tri thức về khoa học, thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác, kịp thời, có nhãn quan chính trị sắc bén, nhanh nhạy, kịp thời định hướng tư tưởng, hình thành thế giới quan chính trị đúng đắn cho người học.

Để mỗi giảng viên có căn cứ học tập và rèn luyện, cần xây dựng chuẩn mực về phong cách lý luận của GVLLCC theo phong cách lý luận Hồ Chí Minh. Cấp ủy, người đứng đầu các nhà trường cần lượng hóa và cụ thể hóa các đặc trưng thành các tiêu chí cho mỗi cán bộ, giảng viên ở cơ quan, đơn vị học tập và rèn luyện theo tinh thần của chỉ thị 05 CT/TW là: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện”(12). Mỗi nhà trường cần xây dựng những điển hình mẫu mực, từ đó nhân rộng điển hình thông qua các hoạt động thực tiễn như: hội thi hội thao, văn hóa văn nghệ, tuyên truyền cổ động... để đưa các điển hình đó vào thực tế đơn vị. Đồng thời, qua các giai đoạn cần có sự đánh giá rút kinh nghiệm, điều chỉnh chuẩn mực mô hình để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Trong công tác cán bộ cần xem xét, đánh giá phong cách lý luận của giảng viên một cách khách quan, khoa học, góp phần làm cơ sở để cất nhắc đề bạt, luân chuyển, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Phải: “Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm”(13). Hằng năm, lãnh đạo các cấp cần thống nhất đánh giá thực trạng phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn của giảng viên, xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng phương pháp sư phạm, phong cách công tác cho giảng viên phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ, điều kiện, khả năng và chức trách. Thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, sớm phát hiện yếu kém, lệch lạc về phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn của giảng viên để uốn nắn, khắc phục kịp thời.

_______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2017

(1), (2), (8), Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.162, 112-113, 274.

(3) Hồ Chí Minh, Sđd, t.1, tr.510.

(4) Ôxíp Manđenxtam: Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc, báo Ogoniok, Liên Xô, số 39, ngày 23-12-1923.

(5)Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr.138.

(6)Hồ Chí Minh, Sđd, t.11, tr.97.

(7)Hồ Chí Minh, Sđd, t.10, tr.391.

(10)Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr.588.

(11), (12), (13) Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trịvề đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,Hà Nội, ngày 15-5-2016.

ThS Nguyễn Hồng Điệp

Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền