Trang chủ    Đào tạo - Bồi dưỡng    Mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên các trường đại học
Thứ sáu, 23 Tháng 6 2023 15:17
5686 Lượt xem

Mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên các trường đại học

(LLCT) - Đội ngũ giảng viên là lực lượng cơ bản quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo ở các trường đại học. Hoạt động giảng dạy của họ luôn bị chi phối bởi các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Việc nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai yếu tố này là cơ sở để đội ngũ giảng viên phát huy tính năng động, sáng tạo, khắc phục những yếu tố khách quan không thuận lợi, từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Bài viết góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, qua đó đề ra phương hướng, giải pháp cơ bản trong giải quyết mối quan hệ này.

Giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy - Ảnh: giaoducthoidai.vn

Con người với tư cách là chủ thể của hoạt động trong nhận thức và cải tạo thực tiễn luôn phải tính đến những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Việc nhận thức đúng mối quan hệ giữa hai yếu tố này giúp cho mỗi chủ thể tiến hành hoạt động đúng mục đích và có hiệu quả. Đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học, việc nhận thức đầy đủ mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy.

1. Quan niệm về điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy 

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử. Quá trình sáng tạo ra lịch sử của con người không nằm ngoài những hoàn cảnh khách quan. Những hoàn cảnh đó đã được hình thành và tồn tại độc lập với ý thức của con người, quy định sự tồn tại và phát triển của con người. Trong quá trình sống, con người buộc phải nhận thức và hoạt động cho phù hợp với những hoàn cảnh khách quan. Đó chính là: xu thế dân tộc, quốc tế, thời đại, những quy luật vận động của lịch sử, mối quan hệ giữa chủ thể và các lực lượng khác… Do đó, “Tất cả những hoàn cảnh không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của chủ thể hành động mà trong hoàn cảnh đó con người làm nên lịch sử của mình đều thuộc với những điều kiện khách quan”(1).

Điều kiện khách quan là tổng thể các yếu tố tồn tại độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác động, quy định hoạt động của chủ thể trong điều kiện lịch sử nhất định. Không chỉ bao hàm những điều kiện vật chất hợp thành hoàn cảnh hiện thực như điều kiện địa lý, môi trường sống, phương thức sản xuất… tồn tại độc lập và thường xuyên tác động đến hoạt động của chủ thể. Điều kiện khách quan còn bao hàm cả những yếu tố thuộc về ý thức, tinh thần, tư tưởng, các quan hệ xã hội, hệ tư tưởng, các phong tục tập quán… đóng vai trò tác động, chi phối, quyết định hoạt động của chủ thể. Do đó, các yếu tố của điều kiện khách quan rất đa dạng, phong phú. Khi chủ thể xuất hiện nhu cầu nhận thức và cải tạo khách thể thì các yếu tố của điều kiện khách quan trở thành điểm xuất phát, thành căn cứ hoạt động cho chủ thể. 

Điều kiện khách quan ở các trường đại học hiện nay là một bộ phận của điều kiện khách quan xã hội, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa… Những điều kiện khách quan này xét trên phạm vi bao quát gồm có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và thời đại; đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chủ trương, định hướng phát triển giáo dục; trình độ khoa học công nghệ; trình độ nhận thức của người học; điều kiện địa lý, khí hậu, thời tiết; mục tiêu, yêu cầu, nội dung đào tạo ở các trường đại học trong từng giai đoạn nhất định... Những yếu tố thuộc về điều kiện khách quan ở các trường đại học hợp thành hoàn cảnh hiện thực, nằm ngoài ý thức, thường xuyên tác động đến hoạt động giảng dạy của giảng viên. Những yếu tố khách quan này luôn vận động biến đổi không ngừng, vừa tạo ra những thuận lợi đồng thời cũng trở thành những rào cản khó khăn trong quá trình phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các trường đại học.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm “chủ quan” là “Cái thuộc về bản thân mình, về cái vốn có của mình”(2)Nhân tố chủ quan là khái niệm nhấn mạnh những đặc trưng về phẩm chất chính trị, đạo đức… hình thành thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật, ý chí, tác phong ứng xử, năng lực hành động của con người với tư cách là chủ thể. 

Nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên bao gồm toàn bộ những yếu tố năng lực, phẩm chất (tri thức, năng lực sư phạm, phẩm chất chính trị, đạo đức, động cơ, ý chí, thể lực…) và khả năng huy động những năng lực, phẩm chất đó vào thực tiễn hoạt động giảng dạy. Tri thức của đội ngũ giảng viên là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nhân tố chủ quan nhưng không phải là tri thức nói chung mà chỉ là bộ phận ý thức trực tiếp tham gia vào hoạt động giảng dạy. Cùng với tri thức đó là quan điểm, tư tưởng tạo thành niềm tin, ý chí của giảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Tất cả những phẩm chất này ảnh hưởng đến hoạt động giảng dạy theo những chiều hướng khác nhau. Nếu tri thức đúng đắn, tư tưởng quan điểm phù hợp với tiến bộ xã hội, niềm tin và ý chí, quyết tâm được hình thành trên những quan điểm, tư tưởng, tri thức khoa học thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động giảng dạy của giảng viên. Ngược lại, nếu tư tưởng, quan điểm sai lầm, phiến diện, tri thức phản khoa học… sẽ cản trở hoạt động giảng dạy của giảng viên. 

2. Mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên 

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó điều kiện khách quan là yếu tố đóng vai trò quyết định, nhân tố chủ quan có tính độc lập tương đối, tác động trở lại điều kiện khách quan. Mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, điều kiện khách quan là cơ sở nền tảng quy định nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy 

Điều kiện khách quan quy định mục đích phát huy nhân tố chủ quan trong giảng dạy của đội ngũ giảng viên. “Tính quyết định của nhân tố khách quan thể hiện ở chỗ, trong hoạt động những mục đích, dự định mà con người đặt ra phải lấy hiện thực khách quan làm căn cứ”(3). Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đặt ra rất nhiều yêu cầu, thách thức. Do đó, hoạt động giáo dục đại học cần hướng tới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng mục tiêu do cơ sở giáo dục đề ra, bảo đảm yêu cầu và mục tiêu giáo dục của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả nước. 

Trong quá trình giảng dạy, đội ngũ giảng viên phải xác định rõ mục tiêu giảng dạy để từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch, tìm mọi biện pháp và bằng ý chí, quyết tâm của mình để đạt được mục đích giáo dục. Tuy nhiên, những mục đích đó không phải được đặt ra một cách tùy tiện mà phải lấy căn cứ từ hoàn cảnh khách quan của các trường đại học, do hoàn cảnh khách quan đó quy định. 

Theo Lênin, mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề. Mục đích chính là hình ảnh lý tưởng của cái kết quả trong tương lai thể hiện mong muốn khát vọng của chủ thể khi thực hiện hành động của mình. Vì vậy, mục đích giảng dạy của đội ngũ giảng viên không phải là sự nhận thức cái đang tồn tại mà là cái cần phải có trong tương lai, đó là những phẩm chất, năng lực mà người học có được sau quá trình đào tạo. Mục đích đúng đắn luôn bắt nguồn từ những tri thức đúng đắn. Mục đích chính là tiền đề tinh thần để đội ngũ giảng viên phát huy năng lực, phẩm chất thuộc về nhân tố chủ quan của bản thân nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Vì vậy, trong hoạt động giảng dạy, giảng viên luôn phải dựa trên điều kiện khách quan để đề ra mục đích, mục tiêu, phương hướng phấn đấu trong tương lai. Mục tiêu, yêu cầu khách quan của quá trình đào tạo bậc đại học đóng vai trò quyết định mục đích phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên. 

Điều kiện khách quan không chỉ quy định mục đích mà còn quy định cả nhiệm vụ, phương pháp, phương thức, đồng thời tạo ra những khả năng, tiền đề giúp nhân tố chủ quan thực hiện những mục đích đó. Đội ngũ giảng viên không tự đề ra cho mình nhiệm vụ một cách tùy tiện, ngẫu hứng mà luôn bắt nguồn từ những điều kiện khách quan cụ thể của mỗi nhà trường, trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi tiến hành giải quyết một nhiệm vụ giáo dục cụ thể, đội ngũ giảng viên phải căn cứ vào những điều kiện khách quan đã có sẵn hoặc đang trong quá trình hình thành để lựa chọn, phát triển những yếu tố thuộc về nhân tố chủ quan phù hợp. 

Vai trò tích cực trong nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên chỉ được thể hiện khi xuất phát từ những quy luật khách quan, điều kiện khách quan thích hợp. Như vậy, điều kiện khách quan mà nhất là mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi trường đại học đưa ra cho giảng viên những nhiệm vụ giảng dạy cụ thể cần giải quyết và chính nó cũng là tiền đề, khả năng hiện thực để giảng viên thực hiện nhiệm vụ của mình. 

Những công cụ, phương tiện phục vụ hoạt động giảng dạy được lấy từ điều kiện khách quan trong mỗi nhà trường. Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công cụ, phương tiện giảng dạy đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tri thức mới và thông tin khoa học được tạo ra với cấp số nhân và có thể lưu trữ bằng công nghệ số hóa. Phương tiện dạy học hiện đại dần trở nên phổ biến, quy trình soạn giảng, lên lớp, tương tác của giảng viên với người học luôn có sự hỗ trợ của các công cụ, phương tiện hiện đại. Những điều kiện khách quan đang biến đổi nhanh chóng sẽ là cơ sở, là tiền đề phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên. 

Thứ hainhân tố chủ quan có vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong cải tạo điều kiện khách quan, trực tiếp tạo nên những thay đổi trong hoạt động giảng dạy 

Mặc dù điều kiện khách quan là tính thứ nhất và giữ vai trò quyết định đối với nhân tố chủ quan nhưng với tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, nhân tố chủ quan có thể chuyển các điều kiện khách quan thành nội dung hoạt động của mình, cải tạo điều kiện khách quan theo mục đích của mình. “Con người không thụ động trông chờ sự chín muồi của nhân tố khách quan theo lối há miệng chờ sung, mà chủ động tác động chuyển hóa nhân tố khách quan, tạo ra sự chín muồi đó”(4). Nhận thức đầy đủ về hoàn cảnh khách quan, quy luật khách quan và các điều kiện vật chất, tinh thần hiện có trong mỗi nhà trường là cơ sở để đội ngũ giảng viên phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tận dụng, khai thác triệt để những yếu tố sẵn có để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.  

Nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên có vai trò tích cực trong cải tạo điều kiện khách quan, trực tiếp tạo nên những thay đổi trong hoạt động giảng dạy. Nhân tố chủ quan không chỉ phụ thuộc vào sự vận động, phát triển, tác động của điều kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào chính những yếu tố bên trong nó. Vì vậy, nhân tố chủ quan là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động giảng dạy trong điều kiện khách quan cho phép. Trong nhận thức và thực tiễn giảng dạy, đội ngũ giảng viên phải nhận thức được vai trò của nhân tố chủ quan nhưng cũng không cường điệu hóa, tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan bởi điều đó dẫn đến những tư tưởng nóng vội, duy ý chí. 

Khi giảng viên nhận thức đầy đủ những thuận lợi, khó khăn do điều kiện khách quan đem lại, bằng tính tích cực, tự giác, sáng tạo họ phát huy toàn bộ những yếu tố thuộc về nhân tố chủ quan vào hoạt động giảng dạy như: nâng cao trình độ tri thức, phát triển năng lực chuyên môn, đạo đức nhà giáo, tình cảm, ý chí, tâm huyết nghề nghiệp, thể lực… Từ đó, họ tận dụng được những điều kiện thuận lợi của quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ để phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất của người học. Đồng thời, tìm ra phương pháp, cách thức khắc phục những điều kiện khách quan không thuận lợi như: tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, mặt trái của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, nguy cơ thương mại hóa hoạt động giáo dục, thói quen bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới… để nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đại học.

3. Khuyến nghị nhằm giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên 

Về phương hướng, cần xác định việc giải quyết mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy thực chất là quá trình trên cơ sở nhận thức và vận dụng linh hoạt những điều kiện, quy luật khách quan, đội ngũ giảng viên biến đổi, hoàn thiện các yếu tố phẩm chất, năng lực của bản thân nhằm theo kịp những đòi hỏi mới, mục tiêu mới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Trong khi trình độ tri thức, năng lực của đội ngũ giảng viên còn một số mặt hạn chế, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác giảng dạy đôi lúc còn chưa đáp ứng tốt nhưng nhờ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan mà đội ngũ giảng viên luôn kiên trì, bền bỉ, sáng tạo tìm ra những con đường, phương pháp thích hợp để vượt qua giới hạn bản thân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. 

Để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên các trường đại học cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, cải cách về mặt thể chế, cơ chế của chính sách đặc thù, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển giáo dục ở bậc đại học. Các trường đại học cần thực hiện nghiêm túc, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; xác định rõ mục tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh và nguyên tắc giáo dục bậc đại học. Từ đó, tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, thi, kiểm tra, đánh giá theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết XIII của Đảng: “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới, hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”(5).

Thứ hai, tăng cường nguồn lực đầu tư của ngân sách nhà nước cùng nguồn lực xã hội hóa để xây dựng kết cấu hạ tầng, trang thiết bị hiện đại mang tính chuyên biệt trong các trường đại học như: giảng đường, thư viện, khu thực hành, không gian đổi mới sáng tạo, khu vực rèn luyện thể chất,… bảo đảm không gian có tính kết nối liên thông đồng bộ, hiện đại, tạo môi trường giảng dạy, học tập thuận lợi, kích thích tính năng động, sáng tạo, tinh thần, chủ động tích cực của mỗi giảng viên. Xây dựng cảnh quan, không gian nhà trường sạch đẹp, hình thành phong cách ứng xử văn minh, lịch sự giữa giảng viên và cán bộ nhân viên nhà trường, giảng viên và học viên, sinh viên.

Thứ ba, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể làm công tác đào tạo, bồi dưỡng; nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ giảng viên. Các nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức thực tiễn. Thực hiện tốt Quyết định số 89/QĐ-TTg của Chính phủ về Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030. Có chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài hợp tác nghiên cứu, đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học trong nước. Tích cực bồi dưỡng năng lực sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống của đội ngũ giảng viên. Tăng cường giáo dục tri thức lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, khơi dậy ý chí, khát vọng, tâm huyết nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên. Tăng cường mở rộng mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các trường đại học với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước để trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm. Giữ gìn môi trường nhà trường trong sạch, lành mạnh với những giá trị khoa học, nhân văn, tiến bộ vì sự phát triển con người

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ đãi ngộ, tiền lương, phụ cấp ưu đãi đặc thù xứng đáng với những đóng góp, cống hiến của đội ngũ giảng viên, góp phần tạo động lực để họ nỗ lực phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giảng dạy. Đẩy mạnh công tác tuyển chọn, trọng dụng nhân tài nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên theo tinh thần: “Đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”(6)

Thứ năm, nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phát huy nhân tố chủ quan trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay. Mỗi giảng viên cần xây dựng chương trình, kế hoạch tự đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, năng lực của bản thân; phát huy tính tích cực, chủ động nhất là trong tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực sư phạm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy. Có ý thức rèn đức, luyện tài, tu dưỡng, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, phấn đấu trở thành người giảng viên tốt, là hình ảnh mẫu mực đối với người học. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực, sai trái trong giáo dục. 

_________________

 

(1) G.E.Glêdecman: Phép biện chứng về các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tạp chí Những vấn đề triết học, số 6/1965, tài liệu dịch lưu hành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ký hiệu II 21, tr.28.

(2) Trung tâm Từ điển học: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, tr.394.

(3), (4) Phạm Ngọc Minh: Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999, tr.11, 11.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.232-233, 138-139.

ThS NGUYỄN THỊ NGA

ThS NGUYỄN THỊ NƯƠNG

Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn

 
Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền