Trang chủ    Đào tạo - Bồi dưỡng    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng    Quan điểm dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng của Đại hội XIII
Thứ ba, 15 Tháng 2 2022 12:14
9563 Lượt xem

Quan điểm dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng của Đại hội XIII

(LLCT) - Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, được Đại hội XIII của Đảng phát triển với tư duy mới, trở thành một quan điểm cơ bản và chủ trương lớn của Đảng trong thời kỳ mới. Sức mạnh của Đảng, của hệ thống chính trị và chế độ XHCN bắt nguồn từ sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân, của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh nghĩa là năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng cao, đất nước ngày càng phát triển phồn vinh, hạnh phúc và chính nhân dân được thụ hưởng thành quả đó.

Sức mạnh của Đảng, của hệ thống chính trị và chế độ XHCN bắt nguồn từ sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân, của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân - Ảnh: vnanet.vn

Cương lĩnh đầu tiên tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2-1930) đã xác định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(1). Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, tranh thủ cả phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam. Tính chất nhân dân, bản chất nhân dân của Đảng đã thể hiện rõ. Luận cương chính trị tháng 10-1930 nhấn mạnh: “cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”(2). Gắn bó mật thiết với quần chúng trở thành yêu cầu khách quan để Đảng tồn tại và phát triển và là một thành tố trong xây dựng Đảng.

Đó chính là điều kiện bảo đảm cách mạng đi đến thắng lợi và sự lãnh đạo đúng đắn, có hiệu quả của Đảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với vai trò đảng cầm quyền, Đảng ta luôn luôn thấm nhuần chỉ dẫn của V.I.Lênin về hai nguy cơ của Đảng Cộng sản cầm quyền: sai lầm về đường lối và xa rời quần chúng.

Tổng kết quá trình lãnh đạo, cầm quyền cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã tổng kết môt số bài học có giá trị thực tiễn và lý luận, trong đó bài học hàng đầu là: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Dân làm gốc, nghĩa là mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân, phải khơi dậy được sự đồng tình hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Nhân dân không chỉ thụ hưởng kết quả lãnh đạo của Đảng mà còn tham gia xây dựng Đảng, mong muốn Đảng mạnh lên. “Trong hoàn cảnh Đảng có sai lầm, khuyết điểm, nhân dân vẫn thiết tha mong đợi Đảng khắc phục sai lầm, đưa đất nước tiến lên. Đảng ta không thể phụ lòng mong đợi đó của nhân dân”(3).

Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thật sự vì lợi ích của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Thắng lợi từng bước của quá trình đổi mới không chỉ củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân mà còn nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong xây dựng Đảng, ủng hộ và bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng.

Thực tiễn của công cuộc đổi mới với việc xác định ngay từ đầu lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, là hoàn toàn đúng đắn. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng đương nhiên là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Chính năng lực lãnh đạo, cầm quyền lại là điều quyết định, tác động trực tiếp tới sự phát triển của đất nước, xã hội và cuộc sống của nhân dân. Sự lãnh đạo, cầm quyền ngày càng tốt, có hiệu quả thì chính nhân dân được thụ hưởng thành quả đó. Vì vậy, nhân dân ngày càng quan tâm và thấy rõ trách nhiệm tham gia vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, Đảng lãnh đạo đúng nghĩa là “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”(4).

Sự phát triển của công cuộc đổi mới, hiện thực hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng càng cho thấy sự cần thiết phải dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo đảm sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân. Việc Đảng làm là vì dân và dân ngày càng tích cực, tự giác tham gia xây dựng Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội IX của Đảng (năm 2001) thông qua, trong phần mở đầu đã nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng”(5). Quan điểm dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng đã được xác định rõ. Quan điểm đó tiếp tục được nêu trong Điều lệ Đảng do Đại hội X của Đảng thông qua. Tổng kết những bài học qua 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã nêu trong bài học thứ tư: “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(6). Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng cũng được xác định trong phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng tại Đại hội X.

Sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng phát triển, càng đòi hỏi công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được thực hiện bài bản, có hiệu quả. Thành tựu xây dựng Đảng được khẳng định cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã thẳng thắn nêu rõ: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(7). Trung ương đã chỉ ra ba hạn chế, yếu kém mà vấn đề hàng đầu là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(8).

Sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là một nguy cơ lớn đối với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhấn mạnh việc giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng trong Đảng. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) đã ban hành Nghị quyết Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trung ương đã chỉ rõ 27 biểu hiện cụ thể của sự suy thoái đó.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, công tác xây dựng Đảng về đạo đức, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực đã đạt được những kết quả tích cực. Trong nhiệm kỳ XII, chỉ tính “Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý)(9); đưa ra xét xử những vụ đại án lớn, thu hồi số lượng lớn tiền bạc, tài sản tham nhũng của Nhà nước và nhân dân.

Những kết quả đạt được nêu trên tiếp tục khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nêu rõ, kết quả đó là rất quan trọng, có ý nghĩa răn đe, cảnh báo, cảnh tỉnh, nhưng điều đáng lo ngại hơn là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng, vô cảm, không còn biết đến lương tâm, danh dự, trách nhiệm.

Các đại hội Đảng trước đây nêu vấn đề dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng trong Điều lệ Đảng và trong tổng kết các bài học. Tuy vậy, việc chỉ đạo thực hiện trong thực tế còn nhiều hạn chế, hình thức. Để khắc phục điều đó, Đại hội XIII của Đảng với tư duy mới và bản lĩnh chính trị, quyết tâm sửa chữa từ trong nội bộ để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục thứ XIV - Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã nhấn mạnh việc tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, gồm 10 nội dung cơ bản, trong đó nội dung thứ tám là: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(10).

Công tác dân vận là một nội dung rất quan trọng của xây dựng Đảng. Tư duy mới của Đại hội XIII là cần nhận thức sâu sắc và rõ hơn vai trò, nội dung của công tác quan trọng đó. Không nên hiểu dân vận chỉ là sự vận động một chiều từ phía Đảng tác động tới quần chúng nhân dân, tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn phải làm rõ vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, ủng hộ và bảo vệ Đảng. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(11).

Quan điểm của Đại hội XIII là xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Vì vậy, nhân dân tham gia xây dựng Đảng cũng đồng thời góp phần quan trọng xây dựng Nhà nước, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Thực hiện tốt và có hiệu quả hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Nhân dân phát huy được thực chất quyền làm chủ, tích cực, chủ động và tự giác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan, bảo đảm bản chất giai cấp công nhân, bản chất nhân dân của Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định một trong tám đặc trưng của CNXH ở Việt Nam: “Là xã hội do nhân dân làm chủ”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong Điều 2, Khoản 2 nêu rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Cả Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước đều xác định rõ ràng quyền làm chủ đất nước, xã hội, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó không phải là khẩu hiệu kêu gọi, sự động viên chung chung mà được thực hiện bằng cơ chế, chính sách, giải pháp. Để nhân dân tự giác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có chất lượng, hiệu quả, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Cần tuyên truyền sâu rộng các nội dung căn bản và cốt yếu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nội dung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Đặc biệt nâng cao nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Tuyên truyền rộng rãi Cương lĩnh, đường lối của Đảng, nâng cao nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bản lĩnh chính trị, ý chí tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Làm rõ giá trị chuẩn mực đạo đức cách mạng của Đảng, gắn liền với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng và toàn xã hội, nêu cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Làm cho nhân dân hiểu rõ hoạt động lãnh đạo của hệ thống tổ chức đảng, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hiểu rõ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và yêu cầu, tiêu chuẩn của đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược.

Công việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về Đảng Cộng sản Việt Nam và nội dung công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị là trách nhiệm của các tổ chức đảng, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp, của các cơ quan chuyên môn của Đảng, nhất là các cơ quan tuyên giáo, dân vận. Đó được coi là một nhiệm vụ trọng yếu của công tác dân vận trong tình hình hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

Các cơ quan báo chí, truyền thông đại chúng có vai trò rất quan trọng giúp nhân dân hiểu rõ Đảng và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội XIII chủ trương đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động của hệ thống thông tin đại chúng. Hiệu quả của hệ thống thông tin đại chúng đã được khẳng định với các chuyên mục trên báo, đài: Diễn đàn công tác tư tưởng, Xây dựng Đảng, Đảng trong cuộc sống hôm nay, Chống “diễn biến hòa bình”, Chính phủ với người dân, Quốc hội với cử tri, Pháp luật và đời sống... Cần tiếp tục đổi mới với những nội dung cụ thể, thiết thực hơn, thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp nhân dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các tầng lớp nhân dân quan tâm nhiều hơn đến phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, làm giàu. Đó là điều cần thiết và chính đáng. Song, cần chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao hiểu biết, giác ngộ chính trị mà trước hết là hiểu biết về Đảng, hệ thống chính trị, tính ưu việt của chế độ XHCN, “củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(12). Niềm tin của nhân dân là nền tảng vững chắc để xây dựng Đảng, hệ thống chính trị vững mạnh.

Hai là, có kế hoạch và cơ chế đối thoại, bàn bạc và lắng nghe ý kiến của nhân dân để xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương, quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(13).

Những năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần gặp gỡ, đối thoại với công nhân tại các loại hình doanh nghiệp, các khu công nghiệp; đối thoại với đại biểu nông dân khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Nguyện vọng của người lao động, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cơ chế, chính sách phải được sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển đồng bằng sông Cửu Long là thành quả của sự lắng nghe không chỉ ý kiến của nông dân mà cả ý kiến của các nhà khoa học. Các đoàn đại biểu Quốc hội đã tăng cường tiếp xúc cử tri, chuyển tải đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của cử tri đến nghị trường Quốc hội; tập trung giám sát những vấn đề cử tri đang quan tâm, bức xúc và những nội dung cần tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật... Trước thềm đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, các văn kiện đã được công bố công khai để toàn dân góp ý kiến. Đó là đưa thực tiễn vào nghị quyết, sự kết hợp giữa ý Đảng và lòng dân.

Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1947 đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự:

“Chúng ta phải kiên quyết bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh. Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây:

1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.

2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(14).

Đó chính là dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng cả về chính trị và tổ chức. cán bộ. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh:

“Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hóa nó thành cách chỉ đạo nhân dân... “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng”(15).

Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII đã tổng kết 5 bài học, trong đó có một nội dung quan trọng: “Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng”(16).

Ba là, tin tưởng và động viên các tầng lớp nhân dân chân thành đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.

Đại hội XIII khẳng định những thành công về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ 2016-2021, cả xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức, cán bộ. Có 5 nguyên nhân dẫn đến thành công, trong đó nguyên nhân thứ tư là “Phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”(17).

Trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường dân chủ XHCN, chú trọng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách có nền nếp, thực chất, tránh hình thức mới có thể mang lại hiệu quả. Dân chủ được thực hiện với hai hình thức chủ yếu: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Nhân dân với tinh thần xây dựng hoàn toàn có quyền góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức Đảng và chính quyền, phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là phát hiện những tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, quần chúng nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật. Không ít những vụ sai phạm, tiêu cực là do chính nhân dân phát hiện để từ đó các cơ quan báo chí, cơ quan điều tra vào cuộc để làm rõ. Vì vậy, các cơ quan kiểm tra, thanh tra, các cơ quan điều tra cần tăng cường lắng nghe ý kiến phản ánh của quần chúng nhân dân.

Nhân dân sử dụng quyền dân chủ đại diện khi tham gia ứng cử, bầu cử vào các cơ quan dân cử: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Các tầng lớp nhân dân tham gia các hội nghị hiệp thương giới thiệu người để bầu vào các cơ quan dân cử. Những cán bộ, đảng viên được giới thiệu bầu vào Trung ương, các cấp ủy cũng phải có ý kiến của nhân dân ở nơi cư trú. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội là các cơ quan đại biểu cho quyền làm chủ, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, thông qua các cơ quan đó để nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện. Các cơ quan, tổ chức quần chúng đó cũng thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội. Vì vậy, nhân dân thực hiện chức năng giám sát qua hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội đó. Thực tiễn đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ngày càng thực chất theo đúng quan điểm của Đảng và quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Để nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của nhân dân thật sự có hiệu quả cần chú trọng nâng cao trình độ nhận thức, ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân. Đại đa số nhân dân có nhận thức đúng đắn, tích cực, tiến bộ, nhưng vẫn còn một bộ phận trung bình, một bộ phận còn ở trình độ hạn chế, thậm chí tiêu cực. Các tổ chức đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị cần dựa vào bộ phận tiên tiến, tích cực, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giải thích giáo dục bộ phận còn lại. Cũng cần nhận rõ âm mưu, hành động của các thế lực phản động, thù địch luôn luôn tìm mọi cách chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước, tìm cách lôi kéo, kích động bộ phận hiểu biết hạn chế về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để có những hành vi chống đối, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Cần làm cho nhân dân hiểu rõ để không bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng. Nghiêm trị các âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ nhân dân. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một mối quan hệ lớn cần được nắm vững và xử lý tốt “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”.

__________________

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.4, 100.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.362-363.

(4), (14), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.325, 337-338, 338.

(5) ĐCSVN: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.5.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.277.

(7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 21-22, 22.

(9), (16), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.200, 226, 222.

(10), (11), (12), (13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.191, 191, 111, 191-192.

PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền