Trang chủ    Diễn đàn    Hội nhập quốc tế với việc đảm bảo các quyền con người
Thứ tư, 15 Tháng 7 2015 16:34
3136 Lượt xem

Hội nhập quốc tế với việc đảm bảo các quyền con người

(LLCT) - Trong những năm gần đây, bằng việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thu được nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế, tạo cơ sở và tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm và thực thi quyền con người.

 

1. Hội nhập quốc tế góp phần phát triển tư duy pháp lý về quyền con người

Hiến pháp 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và hội nhập đã ghi nhận: “ở nước cộng hòa xãhội chủ nghĩa việt nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xẫ hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp và luật” (điều 50). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cụm từ “quyền con người” được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Từ việc quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, Hiến pháp 1992 đã cụ thể hoá các quyền con người để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, thể hiện vai trò làm chủ thực sự của người dân, như: quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước và địa phương, kiến nghị, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 53); quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57); quyền được sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác (Điều 58); quyền được bảo vệ của trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (Điều 59); quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế,… (Điều 60); quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật (Điều 68); quyền được tiếp cận thông tin (Điều 69), v.v.. Trên cơ sở thành tựu của đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và được Quốc hội thông qua vào ngày 28-11-2013.

Hiến pháp 2013 khẳng định, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ngoài nguyên tắc: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”(Điều 14), hầu hết các điều đều quy định trách nhiệm và đảm bảo của Nhà nước đối với công dân như Điều 17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân, v.v..”

Theo tinh thần Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Hiến pháp năm 2013 đã quy định thành nguyên tắc ở Điều 14, khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. Một điểm mới trong Hiến pháp 2013 là đã bổ sung một số quyền, như: “Quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41), thể hiện bước tiến trong việc mở rộng và phát triển quyền con người, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta.

Nội dung và phạm vi chủ thể đã có sự phát triển rõ nét về tư duy pháp lý trong việc xác định các quyền con người trong Hiến pháp và hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam. Việc thừa nhận những giá trị chung của nhân loại về quyền con người là minh chứng cho việc Việt Nam chủ động, tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

2. Hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh và bền vững - điều kiện cần thiết để bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam

Với những cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh. Các thành phần kinh tế phát triển, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt trong vấn đề tạo việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, kinh tế tăng trưởng, tạo điều kiện cho Nhà nước đầu tư nhiều hơn cho các mục tiêu ưu tiên như giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng khó khăn… Mức sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 200 USD/người (năm 1990) lên 1.024 USD/người (năm 2008) và 1.960 USD/người năm 2013. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,82% năm 2007 và 7,8% (năm 2013), giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc (LHQ) về xóa đói giảm nghèo. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam cũng từng bước được nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Thành công về tăng trưởng và ổn định kinh tế trong thời gian qua của Việt Nam đã góp phần không nhỏ để ngày càng bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân trên mọi lĩnh vực.

3. Hội nhập quốc tế thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế, qua đó quyền con người không chỉ được đảm bảo ở cấp độ quốc gia mà còn ở cấp độ quốc tế

Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam coi trọng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Qua đối thoại và hợp tác quốc tế, chúng ta đã giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn tình hình đất nước, con người Việt Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm tốt hơn các quyền con người và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trong khu vực và trên thế giới. Tôn trọng tính phổ quát của các quyền con người, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng về quyền con người, trong đó có Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, đồng thời nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ thành viên.

Là thành viên của các Công ước về quyền con người của LHQ, Việt Nam và các quốc gia đã thiết lập cơ chế giám sát quốc tế tình hình bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người trên lãnh thổ quốc gia. Trong cơ chế này, ủy ban về quyền con người đã được thành lập và các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải xây dựng, bảo vệ Báo cáo quốc gia định kỳ tình hình thực hiện Công ước trước ủy ban.

Bên cạnh cơ chế giám sát đặc thù của Công ước về quyền con người, các quốc gia thành viên LHQ còn thỏa thuận thiết lập Cơ chế kiểm điểm định kỳ của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Hội đồng Nhân quyền LHQ thực hiện chức năng giám sát tình hình thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người được ký kết trong khuôn khổ LHQ. Việt Nam đã tích cực tham gia vào hoạt động của một số cơ chế nhân quyền của LHQ; đối thoại về nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế; mời các chuyên gia độc lập về các vấn đề: dân tộc thiểu số, nhân quyền và đói nghèo, tác động của nợ nước ngoài đối với việc thụ hưởng quyền con người tới Việt Nam để hỗ trợ Việt Nam đảm bảo tốt hơn quyền con người trong các lĩnh vực này. Việt Nam cũng vừa thực hiện Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ 2 về nhân quyền trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, có sự tham gia của 107 quốc gia, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Hiện nay, với tư cách là thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ (184/193 phiếu tín nhiệm), Việt Nam sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của mình trong hội nhập quốc tế. Quá trình hình thành và hoạt động của các cơ chế quốc tế nói trên đặt ra những nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Đây cũng chính là sự bảo đảm ở cấp độ quốc tế cho việc hiện thực hóa các quyền con người của người dân trên lãnh thổ quốc gia thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng.

4. Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập quốc tế cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đối với việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam, đòi hỏi chúng ta cần phải quan tâm giải quyết:

Do tác động của hội nhập quốc tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ… lưu thông dễ dàng trên toàn thế giới, các nền kinh tế có sự nối kết chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên sự “đổ vỡ” và “khủng hoảng” ở một khâu hoặc ở một quốc gia nào đó rất dễ tác động gây ảnh hưởng đến các quốc gia và khu vực trên thế giới theo hiệu ứng lan truyền. Một minh chứng rõ ràng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế vừa qua đã làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam đồng thời phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế nan giải như thâm hụt tài chính, lạm phát tăng cao, nhiều doanh nghiệp đình trệ trong sản xuất kinh doanh… Những khó khăn của nền kinh tế nói chung có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế của người dân, gián tiếp ảnh hưởng đến việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người.

Mặc dù kinh tế Việt Nam những năm qua đều tăng trưởng, các chương trình xóa đói, giảm nghèo đã thu được kết quả tích cực, điều kiện và mức sống của người dân không ngừng được cải thiện nhưng mức chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng tăng. Phân tích tình hình biến đổi thu nhập của các nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn, mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo là một trong những nguy cơ tiềm ẩn nảy sinh những bất ổn trong xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Việt Nam luôn phấn đấu thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường và mở rộng các chương trình an sinh xã hội, chương trình xóa đói giảm nghèo, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.

Hội nhập quốc tế nảy sinh những vấn đề xuyên biên giới, tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất quyền tự chủ của quốc gia, du nhập lối sống phản văn hoá, chủ nghĩa khủng bố, lây truyền các bệnh dịch…

5. Để tận dụng những tác động tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế đến các quyền con người ở Việt Nam, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:

Một làxây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam. Các văn bản pháp luật quốc gia về quyền con người cần phải được rà soát nhằm loại bỏ các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tế; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và thực hiện. Trên cơ sở rà soát tiến tới hệ thống hóa, pháp điển hóa để từ đó kế thừa, phát triển và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình rà soát cũng cần quan tâm đến sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó cũng cần tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao năng lực thể chế, mối quan hệ giữa trách nhiệm của Nhà nước nói chung, của cơ quan và cá nhân có thẩm quyền nói riêng với cá nhân công dân theo hướng đề cao nhân tố con người, tạo điều kiện cho con người thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa X và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị. Kết quả của cải cách hành chính, cải cách tư pháp sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng một bộ máy nhà nước tập trung, thống nhất, thông suốt, đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, kịp thời phục vụ mọi nhu cầu chính đáng, hợp pháp của nhân dân, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

Ba là, củng cố các biện pháp tổ chức thực hiện như xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, bảo đảm cải thiện mọi mặt đời sống của nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái; tăng cường hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chương trình xóa đói, giảm nghèo, hệ thống an sinh xã hội; nâng cao năng lực và nhận thức của người dân trong việc thụ hưởng các quyền; tạo điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể nhân dân tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người.

Bốn là, tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các quốc gia và các tổ chức quốc tế; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế theo hướng hội nhập toàn diện nhằm học hỏi kinh nghiệm vượt qua những khó khăn thách thức khi tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo tiền đề cần thiết góp phần bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người của người dân.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2014

ThS Trần Thị Hòe

Viện Nghiên cứu Quyền con người,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền