Trang chủ    Diễn đàn    Sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam - từ lịch sử đến hiện tại
Thứ tư, 20 Tháng 1 2016 16:50
41310 Lượt xem

Sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam - từ lịch sử đến hiện tại

(LLCT) - Nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch trong và ngoài nước không ngừng đưa ra luận điệu xuyên tạc, cho rằng: sự lựa chọn con đường tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN của Hồ Chí Minh và Đảng ta là sai lầm, trái quy luật phát triển xã hội. Từ thực tiễn phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 85 năm qua cho thấy: con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của dân tộc Việt Nam.
 

1. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, chống thực dân, đế quốc ở nước ta diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại do không có một đường lối đấu tranh phù hợp. Trước thực tế đó, vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, sang nước Pháp, quê hương của tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cũng là dinh lũy kẻ thù đang trực tiếp thống trị dân tộc để xem xét, khảo nghiệm, quyết tâm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân dân. Quyết định sang nước Pháp, sang phương Tây của Nguyễn Ái Quốc thể hiện tư duy độc lập và cách nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu “chủ nghĩa Uyn Xơn” và thấy rõ đây là “một trò bịp lớn”. Người chứng kiến thực trạng xã hội TBCN; nghiên cứu diện mạo, bản chất bóc lột tàn bạo của CNTB, đế quốc, thực dân; thấy rõ tính chất dân chủ giả hiệu, “không đến nơi” của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây là tiền đề quan trọng để Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, nắm bắt được “ánh sáng lý luận” từ bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin.

Tiếp xúc với bản Luận cương của Lênin (đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17-7-1920), bằng sự mẫn cảm về chính trị, tư duy nhạy bén và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của 10 năm lăn lộn trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa và tư bản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. “Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt vấn đề chuyên chính vô sản thành vấn đề trước mắt… Tất cả các phong trào giải phóng dân tộc trong các thuộc địa và trong các dân tộc bị áp bức mà kinh nghiệm đau đớn đã làm cho họ tin chắc rằng đối với họ không có con đường cứu vãn nào khác ngoài sự chiến thắng của Chính quyền Xô viết đối với chủ nghĩa đế quốc thế giới”(1).

Với 12 luận điểm quan trọng, bản Luận cương của Lênin đã tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Ái Quốc và Người đã tiếp thu, bổ sung và phát triển sáng tạo các luận điểm này trong việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, xây dựng cơ sở lý luận tiến lên CNXH ở Việt Nam. Sau này Người nhớ lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(2).

Nguyễn Ái Quốc là một trong số ít các nhà yêu nước ở các nước thuộc địa tiếp thu được “ánh sáng kỳ diệu” từ bản Luận cương của Lênin, nhận thức và nắm bắt được xu hướng phát triển của thời đại từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Sự kiện Người gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (12-1920) có ý nghĩa quan trọng: trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH. Đây là “sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng”(3).

Bắt đầu từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga về nước, vận động đấu tranh giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản. Những luận điểm chủ yếu của con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện qua những bài báo của Nguyễn Ái Quốc trên báo Nhân Đạo, báo Người cùng khổ, báo Thanh Niên, qua tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường kách mệnh”, những bài giảng của người tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu và trong Chính cương, Sách lược vắn tắt của Đảng tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (2-1930). Thành công của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tầm cao tư tưởng, bản lĩnh chính trị và tinh thần chủ động, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc.

2. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân; và lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài 2/3 thế kỷ.

Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn vận động của phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(4). Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên, phản ánh sự lựa chọn khách quan của lịch sử, cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp nhân dân Việt Nam. “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta trong lúc các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”(5)

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn, khoa học, hợp quy luật phát triển của dân tộc và thời đại, là lý tưởng, mục tiêu, là ngọn cờ hành động của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, vận động và phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản, hòa nhập vào trào lưu phát triển của thời đại mới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.

Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam sau năm 1930 cho thấy: sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản theo tư tưởng Cách mạng tháng Mười Nga, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH là sự lựa chọn sáng suốt, duy nhất đúng đắn, gắn liền với vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam.

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định rõ ràng trong Cương lĩnh đầu tiên (năm 1930) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011). Đây vừa là bài học lớn, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong 85 năm qua, vừa là cội nguồn dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH, đổi mới đất nước.

Qua các chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã lãnh đạo toàn dân vượt qua những thử thách cam go của lịch sử, chiến thắng đế quốc, thực dân. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của việc tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; thắng lợi của trí tuệ và bản lĩnh của nhân dân Việt Nam, của khát vọng và ý chí độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. “Có thể khẳng định rằng, các năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, tạo thành những sợi dây logic - lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(6).

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục con đường cách mạng đã lựa chọn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đường lối đổi mới do Đại hội VI hoạch định, được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X và XI là sự nhận thức đúng đắn, khoa học về các quan điểm, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. 

Qua mỗi bước ngoặt lịch sử, Đảng ta luôn khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(7)được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên. Đồng thời, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định rõ hơn những luận điểm trước đây đúng, bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng; những luận điểm trước đây đúng nhưng bây giờ không còn phù hợp do thực tiễn đã thay đổi; những luận điểm vốn đúng nhưng bị nhận thức sai, làm sai; những luận điểm cần được bổ sung vào lý luận qua tổng kết thực tiễn đổi mới.

Đảng ta ngày càng làm rõ, sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô hình xây dựng và phương thức thực hiện mục tiêu CNXH, xác định điều kiện và nội dung bỏ qua chế độ TBCN, tiến lên CNXH. Sự nghiệp đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu, càng đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững và quán triệt mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải đáp những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển bền vững.

Trong quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới của đất nước, Đảng kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện cơ hội, xét lại chủ nghĩa, xa rời trên những vấn đề có tính nguyên tắc; kiên quyết và triệt để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường đi lên CNXH. Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay với những thắng lợi trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, trong xây dựng CNXH, đổi mới đất nước đã chứng minh tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và sáng tạo của sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2015

(1) V.I. Lênin:Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1997, tr.199-200.

(2) Hồ Chí Minh:Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.127.

(3) Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tài liệu tham khảo nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.110.

(4) Hồ Chí Minh:Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.314.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.109.

(6) GS,TS Lê Hữu Nghĩa: “Kiên định con đường đã chọn”, Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2010, tr.20.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83.

 

TS Lê Nhị Hòa

Học viện Chính trị khu vực III

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền