Trang chủ    Diễn đàn    Bác bỏ ý kiến Ngày nay trên thế giới và ở Việt Nam không thể có chủ nghĩa xã hội
Thứ tư, 26 Tháng 4 2017 11:26
2577 Lượt xem

Bác bỏ ý kiến Ngày nay trên thế giới và ở Việt Nam không thể có chủ nghĩa xã hội

(LLCT) - Khi nói về xã hội tương lai, Mác tránh đi vào sự mô tả chi tiết mà chỉ khẳng định rõ: CNCS nảy sinh không phải từ hư vô mà từ CNTB. CNTB tiêu biến cũng không phải vào hư vô mà để lại “những dấu vết” trong CNCS. Do đó, giữa chúng tất yếu có một “thời kỳ quá độ chính trị” - thời kỳ quá độ (TKQĐ) như lâu nay thường gọi tắt, với nhà nước là “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”

1. Phải chăng chưa có và không thể có chủ nghĩa xã hội?

Gần đây có ý kiến cho rằng: theo Mác, công cụ lao động (CCLĐ) là cái quan trọng nhất, quy định quan hệ sản xuất (QHSX), phương thức sản xuất (PTSX), hình thái kinh tế - xã hội (KTXH). Cây gậy và chiếc cung tên sinh ra xã hội cộng sản nguyên thủy, cái cuốc sinh ra xã hội chiếm hữu nô lệ, chiếc cày sinh ra xã hội phong kiến, và máy hơi nước sinh ra xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN). Nhưng chính Mác và Lênin lại xác định,CNXH dựa trên nền đại công nghiệp cơ khí giống như CNTB. Như vậy, đã có hai hình thái KTXH trên cùng một trình độ CCLĐ. Tức là Mác và Lênin đã không nhất quán, tự mâu thuẫn với chính mình. Nếu theo đúng học thuyết hình thái KTXH, thì CNXH phải có cơ sở CCLĐ khác, cao hơn đại công nghiệp. Vậy mà Liên Xô, Đông Âu thời kỳ 1917- 1991 trước đây đều có CCLĐ, LLSX, năng suất lao động (NSLĐ), mức sống, thu nhập bình quân đầu người... không những không hơn, mà thậm chí lại còn kém xa những nước phương Tây. Do đó, các xã hội được gọi là XHCN từ trước đến nay, thật ra đều chưa phải là CNXH.

Mặt khác, hàng trăm năm đã qua từ Mác, Lênin và trong một thời hạn chắc chắn là không ngắn nữa, các nước phương Tây đã, đang và vẫn sẽ là TBCN. Không những thế, chúng còn tiếp tục phát triển ngày càng cao, mà không hề “giãy chết” (hay cho dù chỉ là “đang chết dần đi”) như Lênin nhận định. CNTB thế giới nói chung vẫn không ngừng đi lên, mà chưa hề bước vào giai đoạn tột cùng của nó. Một loại CCLĐ mới cao hơn đại công nghiệp cơ khí cũng chưa xuất hiện. Cho nên, tất cả những nước còn lại, nhất là các nước kém phát triển hoặc đang phát triển, tất yếu đều phải đi theo con đường TBCN, hội nhập vào quỹ đạo của CNTB do phương Tây dẫn đầu.

Có nghĩa là, trong bối cảnh ấy của CNTB, mục tiêu CNXH không hề tồn tại, không thực tế và cũng hoàn toàn không cần thiết. Con đường XHCN là vô vọng, vô ích, bất khả thi. Từ trước đến nay không những chưa có CNXH thực sự ở bất kỳ đâu; mà ngay cả trong tương lai xa cũng không xuất hiện khả năng, điều kiện cho nó ra đời, tức là không thể có CNXH. Bởi vậy, cần từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên hình thái KTXH XHCN, CSCN xa xôi, mơ hồ, vô căn cứ, để hướng tới mục tiêu thiết thực, chắc chắn về “sự phát triển” ở các mức độ cao hay thấp cụ thể, thích hợp khác nhau với từng quốc gia, dân tộc. Điều này thực chất chính là hướng tới mục tiêu, con đường CNTB, một chế độ xã hội có cơ sở kinh tế - kỹ thuật đầy đủ, tương thích và còn giàu tiềm năng cách tân, sáng tạo, tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ (!?).

Dưới đây sẽ xem xét kỹ hơn, để chỉ rõ sai lầm của những ý kiến trên cả về học thuật lẫn về thực tế.

2. Công cụ lao động trong phương thức sản xuất

CCLĐ chỉ là sản phẩm hoạt động của chủ thể người lao động. Mác nói đến CCLĐ của người lao động nhất định, không phải CCLĐ bất kỳ, tự thân, chung chung. CCLĐ tách khỏi người lao động, thì chưa phải là thành tố của sản xuất. Bản thân CCLĐ không quy định cái gì khác, càng không quy định người lao động. Tính độc lập của nó đối với người lao động chỉ là tương đối. Nó chỉ trở thành CCLĐ đúng nghĩa khi gắn với người lao động nhất định cụ thể tương ứng.

Mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên được thực hiện thông qua CCLĐ và bằng CCLĐ. CCLĐ đó gắn liền với chủ thể người lao động, là năng lực chinh phục, cải tạo giới tự nhiên vốn tiềm ẩn bên trong họ, đã vật thể hóa ra bên ngoài. Khi được người lao động tạo ra, CCLĐ trở thành “khí quan” của họ trong quá trình lao động sản xuất, được họ sử dụng, phù hợp và tương thích với họ. CCLĐ trong trạng thái tĩnh tại, bất động, tách rời người lao động, chỉ còn là khối vật thể thuần túy.

Nhưng ngay cả khi gắn với người lao động, CCLĐ cũng chỉ có thể góp phần cùng với họ tạo nên một trình độ kinh tế - kỹ thuật cụ thể nhất định của LLSX, mà không trực tiếp quy định bản chất KTXH của QHSX. Toàn bộ LLSX nói chung, như một hệ thống các nhân tố hợp thành, bao gồm CCLĐ, đối tượng lao động, phương tiện lao động, và trước nhất là người lao động, mới chính là cái trực tiếp quy định bản chất KTXH của QHSX, phương thức sản xuất. Trong hệ thống chung của LLSX, chính người lao động với tất cả các thế hệ hiện tại và trước đó kế tiếp nhau là chủ thể chân chính đích thực tạo ra, quyết định CCLĐ. Ngay cả những CCLĐ có sẵn và có trước người lao động thì cũng không chi phối họ hoàn toàn. Bởi vì, chúng vẫn chỉ là kết quả của các thế hệ người lao động đi trước.

CCLĐ và người lao động được nói đến ở đây không phải là CCLĐ và người lao động lắp ghép tùy tiện, gò ép, ngẫu nhiên với nhau. Đó là một tổng thể hoàn chỉnh kết hợp, tổng hợp thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa người lao động với CCLĐ. Người lao động nào thì có CCLĐ ấy tương ứng, và ngược lại. CCLĐ của người công nhân công nghiệp thế kỷ XXI đương nhiên không thể là cái rìu đá. Một dây chuyền máy tự động không phải là CCLĐ cho người tiền sử. Người lao động của một nền sản xuất lạc hậu có thể có được CCLĐ tiên tiến nhờ sự giúp đỡ, viện trợ từ bên ngoài (như Mông Cổ trong giai đoạn 1921-1991). Hoặc ngược lại, người lao động của nền sản xuất phát triển cao có thể phải sử dụng CCLĐ lạc hậu, khi bị mất cơ sở kinh tế - kỹ thuật tiên tiến vì thiên tai, chiến tranh (như Đức, Nhật Bản sau năm 1945). Nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại lệ, không có ý nghĩa phổ biến.

QHSX giữa những người lao động với nhau phù hợp tất yếu với mối quan hệ giữa họ với tự nhiên, do mối quan hệ này quy định. Nhưng không phải là chỉ riêng CCLĐ quy định QHSX. Thật ra, người lao động tự xác lập quan hệ KTXH của mình, nhưng không tùy tiện mà căn cứ vào điều kiện kinh tế - kỹ thuật hiện thực khách quan của chính họ. Mác đã từng viết: “sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện có”, “công nghiệp lớn xóa bỏ sở hữu tư nhân”(1). Đây chỉ là một cách diễn đạt vắn tắt, ngắn gọn về LLSX nói chung bao gồm cả người lao động. Trên thực tế, CCLĐ nào cũng thuộc về một người lao động nhất định.

Nếu coi “CCLĐ tạo nên người lao động, quy định QHSX”, thì đó là sự lẫn lộn về nguyên tắc. Cái quy định QHSX ở đây vẫn là người lao động với CCLĐ, tức là những bộ phận hợp thành yếu tố chính của LLSX. Đó là, người lao động sử dụng CCLĐ chứ không phải chỉ có hai bàn tay trắng và khối tri thức, thông tin trong đầu óc dù to lớn sâu sắc đến bao nhiêu. Và CCLĐ gắn kết, tương hợp với người lao động, được họ vận hành trong lao động sản xuất, chứ không phải chỉ là khối vật thể, vật chất - kỹ thuật riêng biệt dù tiên tiến, hiện đại đến đâu.

3. Công cụ lao động trong hình thái kinh tế - xã hội 

Các CCLĐ được nêu trên đã thật sự tiêu biểu, đặc trưng cho những hình thái KTXH tương ứng chưa? Chẳng hạn, ở phương Tây thời phong kiến trung cổ, CCLĐ điển hình là chiếc cối xay gió, chứ không phải là cái cày. Nhưng ngay trong thời đại của mình những chiếc cối xay ấy, mà nay vẫn còn lại như một di tích lịch sử đặc sắc ví dụ ở miền đồng quê Hà Lan, cũng mang đậm ý nghĩa biểu tượng hơn là vai trò thực tế. Vậy thì tiêu chí của các CCLĐ đặc thù, phân biệt những hình thái KT-XH ấy là gì? Có phải là trình độ, chất lượng, hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trực tiếp, đơn thuần của các CCLĐ này? Hay là quy mô, mức độ, hiệu quả xã hội hóa đối với nền sản xuất mà chúng tạo ra, từ đó làm thay đổi bản chất KTXH của QHSX?

Theo Mác, tuy LLSX trực tiếp quy định QHSX, song cái trực tiếp quy định bản chất KTXH của  hình thái KTXH lại là QHSX(2). Bởi vậy, rất cần trở lại với thực chất tư tưởng, văn cảnh cụ thể của những luận điểm của Mác, Ăngghen, Lênin một cách đầy đủ, nghiêm túc, thay vì chỉ dẫn ra một số câu trích từ những tác phẩm đồ sộ, rộng lớn của các ông(3).

Cái gậy, chiếc cung tên, cái cuốc, cái cày, hoặc kể cả cối xay gió đều chỉ là những CCLĐ thủ công. Điểm khác biệt của cái cày dùng sức kéo đại gia súc, hay chiếc cối xay gió lợi dụng sức gió với cái cuốc, cái gậy, chiếc cung đều không đáng kể về chất. Những nguồn động lực cung cấp cho thao tác lao động sản xuất này, dù nhỏ hay lớn, thậm chí còn là rất lớn, vẫn có nhiều hạn chế(4). Vậy mà theo ý kiến trên, các CCLĐ cùng một trình độ thủ công ấy lại tạo ra ba hình thái  KTXH khác biệt nhau. Còn máy hơi nước là CCLĐ cơ khí hoàn toàn khác về chất, thì lại chỉ tạo ra được duy nhất CNTB. Hình thái KTXH mới XHCN phải dựa trên cơ sở một CCLĐ khác cao hơn đại công nghiệp cơ khí. Nếu CCLĐ thủ công đã làm cơ sở chung cho ba  hình thái KTXH, thì tại sao CCLĐ cơ khí không thể tạo ra hơn một hình thái KTXH? 

Cho nên, cơ sở của CNXH không phải là một nền kinh tế - kỹ thuật, CCLĐ mơ hồ, trừu tượng, mà vẫn là một nền sản xuất vật chất phát triển cao. Nó bao gồm một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, hoặc kể cả ngoài công nghiệp mới nào đó. Nhưng chúng vẫn gắn với công nghiệp và không thay thế công nghiệp.

CCLĐ đại công nghiệp trong tương lai với trình độ cao hơn hiện nay, có thể sẽ tạo nên cơ sở kinh tế - kỹ thuật của CNXH, CNCS. Về mặt nguyên tắc, có thể nói như vậy và cũng chỉ có thể nói thế thôi. Ngay từ bây giờ đòi hỏi đã phải chỉ ra được cụ thể CCLĐ ấy là gì, thì chính là điều phi lịch sử, phi thực tế. Điều đó sẽ khó tránh khỏi hoặc rơi vào quan điểm tư biện, chủ quan, không luận chủ nghĩa, hoặc chuyển sang tư duy khoa học viễn tưởng kiểu Giuynlơ Vécnơ.

Khi nói về xã hội tương lai, Mác tránh đi vào sự mô tả chi tiết mà chỉ khẳng định rõ: CNCS nảy sinh không phải từ hư vô mà từ CNTB. CNTB tiêu biến cũng không phải vào hư vô mà để lại “những dấu vết” trong CNCS. Do đó, giữa chúng tất yếu có một “thời kỳ quá độ chính trị” - thời kỳ quá độ (TKQĐ) như lâu nay thường gọi tắt, với nhà nước là “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(5).

Một CCLĐ cụ thể đặc trưng theo một ý nghĩa tương đối cho CNXH, CNCS có thể đến trình độ phát triển cao của hình thái KTXH này mới xuất hiện. Nhưng khi ấy nó cũng vẫn chỉ là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của hình thái đó. Mác - Ăngghen đã luận giải sâu sắc rằng, ngay từ nửa sau thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp cơ khí đã bắt đầu vượt qua chế độ tư hữu và cơ chế cạnh tranh tự do TBCN. Khi ấy, với CCLĐ này đã bắt đầu có thể xác lập chế độ sở hữu và sự quản lý chung của toàn xã hội đối với nền sản xuất, tức là QHSX CSCN(6).

Như vậy, cách tiếp cận mối quan hệ CCLĐ (quy định)/ hình thái KTXH trong ý kiến trên, là vừa thiếu chính xác, chặt chẽ vừa không hợp lý, nhất quán. Các CCLĐ đã nêu đều không đặc trưng, theo nghĩa là nguyên nhân quyết định cuối cùng cho những hình thái KTXH. Nhiều lắm chúng cũng chỉ biểu đạt các kiểu loại, dạng thức xã hội nào đó nhất định, nhưng không theo tiêu chí hình thái KT-XH mang tính tổng hợp, đồng bộ, hệ thống, cân đối, tức hoàn toàn không phải là những hình thái KTXH.

Tóm lại, CCLĐ không quy định, quyết định người lao động, QHSX, phương thức sản xuất, hình thái KTXH. Nền đại công nghiệp cơ khí giữa thế kỷ XIX đã có thể trở thành cơ sở ban đầu cho CNXH, mặc dù bản thân CCLĐ hùng mạnh này vẫn tiếp tục phát triển lên những trình độ mới ngày càng cao hơn nữa trong CNTB. Chính vì vậy, một kết luận lôgíc được rút ra ở đây là, xét trong cả tiến trình đi từ CNTB lên CNXH ở một số nước nhất định, thì giai đoạn đầu tiên của tiến trình đó hoàn toàn có thể thấp hơn về CCLĐ, kinh tế... so với một số nước TBCN phát triển cao hơn nào đó khác cùng thời.

4. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

CNXH đương nhiên là cao hơn về mọi mặt, trước hết là về kinh tế kể cả so với CNTB phát triển tới đỉnh điểm. Nhưng TKQĐ “lâu dài, khó khăn” từ CNTB nói chung trực tiếp lên CNXH, nhất là chặng đầu của TKQĐ đó, có thể không cao hơn mà thậm chí còn thấp hơn CNTB đỉnh cao. Đặc biệt, đối với TKQĐ từ điểm xuất phát tiền TBCN nửa trực tiếp, hoặc gián tiếp lên CNXH, thì chặng đầu thấp hơn CNTB sẽ còn lâu dài, khó khăn gấp bội, và đây là điều tất yếu.

TKQĐ từ CNTB trực tiếp lên CNCSnhìn chung cao hơn CNTB đã đạt đến đỉnh điểm. Tuy nhiên, đỉnh điểm về lôgíc và về lịch sử trên thực tế không trùng nhau về thời gian, không gian. Quy luật kinh tế cơ bản của CNTB bắt đầu phát huy tác động đầy đủ và chi phối, thống trị tuyệt đối sớm hơn rất nhiều so với thời điểm xã hội TBCN kết thúc. Cái lịch sử kéo dài sự tồn tại quá thời rất lâu, sau khi cái lôgíc đã hoàn tất. CNTB có thể phát triển cao sớm nhất ở một quốc gia, dân tộc này, nhưng lại bị thay thế trước tiên ở một quốc gia, dân tộc khác. Trên thực tế, CNTB xuất hiện mầm mống kinh tế đầu tiên ở Italia thế kỷ XIV; xác lập chế độ nhà nước hoàn chỉnh sớm nhất ở Hà Lan thế kỷ XVI, ở Anh thế kỷ XVII; thực hiện các cuộc cách mạng tư sản điển hình triệt để ở Pháp năm 1789, ở Mỹ năm 1776.

Cho nên, tại một số nước TBCN đạt đến đỉnh điểm lôgíc, tuy không phát triển cao nhất nhưng đã bắt đầu TKQĐ, thì CNTB ở đây cũng kết thúc cả về mặt lịch sử. Trong khi đó, tại một số nước TBCN khác, tuy phát triển cao nhất nhưng chưa đi vào TKQĐ, thì sự phát triển lịch sử của CNTB vẫn tiếp diễn. Lúc này, so với những nước thứ hai, thì những nước thứ nhất vẫn sẽ thấp hơn về mặt kinh tế, nhất là trong giai đoạn đầu của TKQĐ. Chỉ đến giai đoạn cuối của TKQĐ, thì về mọi mặt chúng mới hoàn toàn vượt qua CNTB.

Mác - Ăngghen cũng đã lần đầu tiên đề cập tới khả năng về TKQĐ từ xã hội tiền TBCN không hoàn toàn trực tiếp, mà nửa trực tiếp đi lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Ở đây nước lạc hậu được nước TBCN tiên tiến phương Tây giúp đỡ về cơ sở kinh tế - kỹ thuật. Chúng tác động qua lại lẫn nhau và cùng đi vào TKQĐ(7). Trong trường hợp này, giai đoạn đầu của TKQĐ ở nước lạc hậu thấp hơn CNTB rõ rệt về CCLĐ, kinh tế.

Khả năng về TKQĐ nửa trực tiếp được Mác - Ăngghen khái quát từ thực tế nước Nga Sa hoàng đương thời và liên hệ với một tiền lệ lịch sử có ý nghĩa tham chiếu gợi mở lớn. Tiền lệ ấy được hai ông quan tâm ngay từ giữa những năm 1840, đề cập nhiều lần trong suốt thời gian về sau. Đó là trường hợp người Giécmanh thời cổ đại ở Tây Âu, đã từ xã hội công xã nguyên thủy quá độ nửa trực tiếp lên xã hội phong kiến bỏ qua giai đoạn phát triển chiếm hữu nô lệ(8). Cùng tham gia vào bước quá độ này là người La Mã đã đạt tới trình độ cao của xã hội chiếm hữu nô lệ.

Kế thừa và phát triển Mác - Ăngghen, trong thời đại mình, Lênin nêu lên và hiện thực hóa ở nước Nga lý luận về TKQĐ từ các quốc gia dân tộc lạc hậu tiền TBCN riêng biệt, gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Nội dung cơ bản  cốt lõi của lý luận này là sử dụng kinh tế TBCN để xây dựng, phát triển LLSX cho CNXH, tức là chính sách kinh tế mới (NEP). Tuy nhiên, khi gặp tình thế chiến tranh quân sự khẩn cấp, khó khăn, có thù trong giặc ngoài, sự phản loạn phục thù của tư sản, quý tộc, địa chủ bên trong hoặc sự can thiệp xâm lược bên ngoài của CNTB, chủ nghĩa đế quốc thế giới, thì chuyển sang chính sách cộng sản thời chiến. Trong TKQĐ gián tiếp này, hiển nhiên là CCLĐ, nền kinh tế không thể cao hơn, mà một thời gian đầu rất dài vẫn sẽ thấp hơn hẳn so với CNTB. Vì thế Lênin nêu rõ, sau Cách mạng Tháng Mười ở nước Nga Xôviết nói CNXH chỉ là với ý nghĩa quyết tâm xây dựng CNXH, chứ không phải đã có nền kinh tế XHCN thực sự(9).

Như vậy, lý luận Mác - Lênin về TKQĐ làm sáng tỏ rằng, không phải CNXH, mà giai đoạn đầu của TKQĐ nói chung, TKQĐ gián tiếp nói riêng lên CNXH thường thấp hơn CNTB đã phát triển cao về các mặt kinh tế, LLSX, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, NSLĐ, CCLĐ... Điều này không mâu thuẫn, mà được hàm chứa chính trong nội dung thống nhất, toàn diện, sâu sắc biện chứng của lý luận đó nói chung, lý luận về TKQĐ gián tiếp nói riêng.

5. Thực chất của “chủ nghĩa xã hội hiện thực”

Trên thực tế, và cũng theo đúng lý luận Mác- Lênin về TKQĐ, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, những nước XHCN hiện nay đều chưa phải là các xã hội XHCN thật sự. “CNXH hiện thực” thật ra chỉ là các xã hội định hướng XHCN, đang ở TKQĐlên CNXH với những trình độ phát triển khác nhau. Hơn nữa, TKQĐ đó về thực chất chỉ là gián tiếp. Không phụ thuộc vào những tuyên bố của chính giới, giới học thuật tại một số nước XHCN trước đây và hiện nay, điều này đã được thực tế lịch sử và thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng, khẳng định. TKQĐ gián tiếp này sẽ chỉ kết thúc khi nó hoàn toàn vượt qua CNTB trên toàn thế giới về mọi mặt cả tương đối lẫn tuyệt đối, cả đồng đại lẫn lịch đại, trong tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, tinh thần, đặc biệt là kinh tế. Cho nên, trước khi đạt tới trình độ ấy, trong thời gian đầu khá dài TKQĐ gián tiếp kém xa CNTB về CCLĐ, kinh tế là điều rất bình thường, tự nhiên.

Trong khi đấy, sau Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga đã 100 năm và sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã 170 năm, do sự phát triển “ngoắt nghoéo, dích dắc của lịch sử” (Lênin) mà triển vọng về các TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp có thể vẫn còn xa. Chính bởi thế, trong những vấn đề cơ bản nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, lý luận về TKQĐ gián tiếp trở thành một nội dung có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với hệ thống lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt từ năm 1930 tới nay. Ý nghĩa này càng tăng lên trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986, khi Liên Xô trước đây bắt đầu đi vào cải tổ và cắt giảm đáng kể sự giúp đỡ đối với Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay. Đối với tất cả các nước đang và chậm phát triển nói chung sau cơn địa chính trị toàn thế giới năm 1989-1991, lý luận đó cũng có ý nghĩa tương tự. Bởi vì, nếu như từ năm 1917 như Lênin chỉ rõ, con đường đi lên CNXH của các quốc gia, dân tộc thuộc địa, phụ thuộc lạc hậu là “liên minh chặt chẽ với nước Nga Xôviết, với các nước cộng hòa xôviết”, tức thực hiện TKQĐ nửa trực tiếp. Thì từ năm 1991 con đường đó về cơ bản chuyển thành TKQĐ gián tiếp, như Lênin từng vạch ra cho chính nước Nga.

Nhưng dù mới chỉ là TKQĐ gián tiếp thì cũng chính là đã bắt đầu thực sự tồn tại con đường đi lên CNXH. Ở đây nếu cho rằng đã có CNXH, thì sẽ là không tưởng, “tả khuynh”, giáo điều, bảo thủ, chủ quan. Nhưng nếu coi là hoàn toàn chưa có và sẽ không thể có CNXH, nên phải đi con đường TBCN “phù hợp với quy luật tự nhiên”, thì lại là ngụy biện, hữu khuynh, cơ hội, thực dụng. Cả hai loại ý kiến này đều phi biện chứng, trái với thực tế. Đặc biệt, chúng không thấy được tính đặc thù của TKQĐ gián tiếp là, trong một thời gian đầu khá lâu dài sẽ thấp hơn CNTB về kinh tế - kỹ thuật. Nhưng mặt khác, TKQĐ ấy dù sao cũng là con đường nhanh nhất, chắc chắn nhất để phát triển thực sự và đi lên CNXH.

Liên quan đến điều này, có thể thấy thêm rằng, cho đến nay vẫn tồn tại quan điểm đồng nhất TKQĐ trực tiếp với CNXH. Nhưng với TKQĐ gián tiếp thì không thể là CNXH được. Bởi vì, trong giai đoạn đầu nó tất yếu thấp hơn đỉnh điểm lôgíc, chưa nói đỉnh điểm lịch sử của CNTB. Nếu TKQĐ gián tiếp chính là CNXH, và “CNXH” này thực tế thấp hơn CNTB, thì đây là điều hoàn toàn phi lý, nghịch lý. Nó sẽ làm đảo lộn toàn bộ hệ thống lý luận Mác- Lênin, do thế không thể chấp nhận được. Rõ ràng, tư tưởng của Lênin phân biệt TKQĐ với CNXH(10), là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn và vô cùng sáng suốt. Nó đã bao quát chính xác, tiên lượng thiên tài về triển vọng mang tính hiện thực cao của TKQĐ gián tiếp trong khả năng tổng quát về TKQĐ nói chung.

Những ý kiến nêu trên đã áp đặt một “tam đoạn luận” cho rằng: i) Tại Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu trước đây và những nước XHCN hiện nay đã có “CNXH đích thực”; ii) Nhưng vì về CCLĐ, kinh tế CNXH ấy rõ ràng thấp hơn hẳn CNTB, là chế độ vẫn đang tiếp tục phát triển ngày càng hiệu quả, mạnh mẽ; iii) Cho nên phải phủ nhận CNXH, khẳng định CNTB. Tư duy và hệ luận này thống nhất với luồng quan điểm sai trái xuất hiện, tồn tại trong nước từ gần 30 năm nay. Chúng tương đồng, tích hợp, tổng hợp những quan điểm của các tư tưởng gia, lý luận gia “cải tổ” nửa cuối những năm 1980 phủ nhận hoàn toàn CNXH Xôviết và của Phukuyama, học giả Mỹ nổi danh vào năm 1989, khi cho rằng lịch sử xã hội loài người “cáo chung” với đỉnh cao khải hoàn tột bậc là CNTB. Tư duy và hệ luận đó, từ ngộ nhận đã đi đến đối lập với một số nội dung lý luận Mác - Lênin quan trọng, có tính thực tiễn vừa trực tiếp cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng XHCN nước ta.

Để góp phần khắc phục sai lầm trên và những hạn chế khác trong nhận thức về mục tiêu, con đường lên CNXH ở Việt Nam ngày nay, từ cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tiếp tục làm rõ thêm một số vấn đề cấp bách, thiết thực sau:

i) Biện chứng của quá trình hình thành, sinh thành, trưởng thành, phát triển, quá độ, chuyển hóa, phủ định của phủ định các hình thái KTXH.

ii) Tính đặc thù của CNXH trong toàn bộ quá trình trên.

iii) Lý luận về các TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp lên CNCS của Mác - Ăngghen, đặc biệt là TKQĐ gián tiếp lên CNXH của Lênin.

iv) Thực tiễn về TKQĐ gián tiếp lên CNXH: quá trình lịch sử, kinh nghiệm xôviết; những điều kiện, khả năng mới trong giai đoạn hiện nay của thời đại ngày nay; nội dung, đặc điểm ở Việt Nam thời gian qua và hiện nay.

______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2016

1. Mác: Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846), C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.94-95.

2. Mác: Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (1859), Sđd, t.13, tr.15.  

3. Liên quan đến vấn đề ở đây, xem thêm: Mác: Hệ tư tưởng Đức, Sđd; Mác: Tư bản. Phê phán khoa kinh tế chính trị (1867), Sđd, t.23, tr.1056-1060.

4.  Mác: Tư bản, Sđd, tr.543-545.  

5. Mác: Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875), Sđd, t.19, tr.47.

6. Mác - Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1847-1848), Sđd, t.4, tr.604.

7. Mác: Những bản dự thảo thư trả lời thư của V.I.Da-xu-lích (1881), Sđd, t.19, tr.572-603.   

8. Mác: Hệ tư tưởng Đức, Sđd, t.3, tr.106-107.   

9. Lênin: Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh”...(1918), V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.362.

10. Lênin: Nhà nước và cách mạng (8-9/1917), V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.33, tr.222-223, 390-391.

 

PGS, TS PHẠM VĂN CHÚC

Ban Thư ký  Hội đồng lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền