Trang chủ    Diễn đàn    Bàn về mô hình chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính ở nước ta hiện nay
Thứ hai, 25 Tháng 6 2018 09:42
1680 Lượt xem

Bàn về mô hình chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính ở nước ta hiện nay

(LLCT) - Hiện nay, vấn xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính ở nước ta đang được giới nghiên cứu và toàn xã hội quan tâm, bởi đây là tiền đề quan trọng để nền kinh tế nước ta thích ứng với hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Để xây dựng thành công Chính phủ kiến tạo và liêm chính ở Việt Nam hiện nay, cần tập trung hoàn thiện thể chế,xóa bỏ rào cản, cải thiện môi trường đầu tư; thể chế hóa nghĩa vụ và cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình nhằm nâng cao chất lượng thực thi công vụ; xây dựng các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệpđể thúc đẩy tính liêm chính…

1. Khái quát về Chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính

Chính phủ kiến tạo phát triển, hay Nhà nước kiến tạo phát triển có đặc trưng cơ bản là Nhà nước đóng vai trò lãnh đạo, định hướng sự phát triển kinh tế của đất nước(1). Nhà nước “đặt sự phát triển kinh tế là mục tiêu cao nhất trong chính sách của mình và có khả năng thiết kế các công cụ để thúc đẩy mục tiêu đó”(2). Nhà nước kiến tạo phát triển đặt ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế thông qua việc định hướng, đặt ra quy tắc, điều phối, phân bổ nguồn lực và sử dụng những công cụ chính sách đa dạng khác.

 UNDP cho rằng: “Nhà nước kiến tạo phát triển là một nhà nước đóng vai trò mạnh mẽ trong nền kinh tế quốc gia với mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế”(3).Những đặc điểm cụ thể của nhà nước kiến tạo phát triển bao gồm: (1) Bộ máy quan liêu mạnh, có thẩm quyền, không bị chính trị hóa, được tách biệt và không bị ảnh hưởng bởi các cuộc bầu cử và các áp lực kinh doanh; (2) Giới lãnh đạo mạnh mẽ, có tầm nhìn xa trông rộng, có cam kết lớn, có trách nhiệm cao với đất nước; (3) Kế hoạch phát triển quốc gia hiệu quả; (4) Khả năng điều phối các hoạt động kinh tế và các nguồn lực; (5) Hỗ trợ tầng lớp doanh nhân của quốc gia phát triển mạnh mẽ, vươn ra thị trường thế giới; (6) Tập trung vào nâng cao năng lực con người bằng cách đầu tư vào các chính sách xã hội để thúc đẩy giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, và các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội khác; (7) Có niềm tin và sự tự tin vào việc xây dựng các định chế và tiêu chuẩn như pháp quyền, công lý, ổn định chính trị, và hòa bình để đảm bảo sự tin tưởng thị trường(4).

Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển đã đem lại sự thịnh vượng và thành công cho các nước Đông Á vào cuối thế kỷ XX, góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính châu Á thông qua sử dụng các công cụ Nhà nước mang tính cứng rắn trong việc can thiệp vào xã hội. Chính phủ kiến tạo phát triển là cách tiếp cận cơ chế hoạt động của Chính phủ ở các nước coi trọng vai trò của thị trường, tích cực can thiệp để định hướng thị trường nhưng cũng không tuyệt đối hóa nó. Đây là mô hình Chính phủ trung lập so với Chính phủ của các quốc gia theo mô hình thị trường tự do và các nước theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, ít đề cập tới vai trò của thị trường trước đây.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Liêm chính” là “trong sạch và ngay thẳng”(5). Tổ chức Minh bạch Quốc tế cho rằng, liêm chính là “hành vi và hành động, phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức và luân lý được các cá nhân cũng như các tổ chức chấp nhận…, tạo ra rào cản đối với tham nhũng”(6). Như vậy, liêm chính bao gồm các chuẩn mực đạo đức, đạo lý và các quy phạm pháp luật giúp tạo ra những giá trị trong một môi trường cụ thể. Hệ thống các quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức đó bao gồm sự trừng phạt, lên án đối với các hành vi, hành động đi ngược với liêm chính nhưng cũng bao gồm cả những chính sách, quy định nhằm khuyến khích, bảo đảm, ngợi khen sự thực hành liêm chính. Được biểu hiện thông qua các hành vi ứng xử hoặc hoạt động của các cá nhân, tổ chức có liên quan dựa trên chuẩn mực đạo đức và tuân thủ pháp luật, bảo đảm sự trung thực, ngay thẳng và không vụ lợi. Xây dựng chính phủ liêm chính theo đó gắn với xây dựng một bộ máy hành pháp mạnh, trong sạch, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình rõ ràng và năng lực quản trị cao.

Một Chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính phải là Chính phủ mạnh, bao gồm những người có trí tuệ, có kiến thức, có tư duy tốt, chuyên nghiệp, có khả năng nhìn xa trông rộng, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đề ra định hướng phát triển đất nước một cách tốt nhất và có kỹ năng hành động tầm chiến thuật nhằm vận hành bộ máy hành chính, với một phương thức hoạt động minh bạch, công khai và có đủ khả năng giải trình, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu đầu tiên và lấy kết quả thực tiễn đem lại làm thước đo mức độ thực thi công vụ.

2. Ý nghĩa của việc xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính ở nước ta

Thứ nhất, xây dựng Chính phủ kiến tạo là tiếp tục tinh thần đổi mới tư duy của Đảng trong hơn 30 năm qua nhằm đưa đất nước phát triển, giàu mạnh, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại hội XII của Đảng và các hội nghị Trung ương, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 4 đã nhấn mạnh việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống công vụ, bộ máy hành chính hiệu quả và liêm chính, chống tham nhũng, suy thoái, tha hóa.... Xây dựng chính phủ kiến tạo nhằm hướng tới một chính phủ hiệu quả, đổi mới mạnh mẽ, đột phá trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, triển khai hợp tác trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, giáo dục và quốc phòng, an ninh được. Đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra thách thức và yêu cầu cải cách Chính phủ hiện nay. 

Thứ hai, xây dựng chính phủ kiến tạo và liêm chính nhằm phòng ngừa nguy cơ tham nhũng. Tham nhũng xét về bản chất là hành vi lợi dụng quyền lực công để chiếm đoạt các lợi ích bất chính. “Tham nhũng = (Sự độc quyền + Sự tự quyết) - (Trách nhiệm giải trình + Liêm chính + Minh bạch)”(7). Khi trách nhiệm giải trình, sự liêm chính và tính minh bạch được nâng cao, sự độc quyền và tự quyết giảm đi thì tham nhũng sẽ giảm theo. Tại các quốc gia đang phát triển, sở dĩ tình trạng tham nhũng tràn lan là do khả năng chịu trách nhiệm rất thấp, cơ hooijj cho tham nhũng rất cao. Khi cơ hội tham nhũng giảm đi, bởi sự minh bạch và pháp luật nghiêm minh thì công chức sẽ không dám có ý định tham nhũng.

Thứ ba, xây dựng Chính phủ kiến tạo và liêm chính nhằm thích ứng với xu hướng hội nhập và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Cách mạng Công nghiệp 4.0(FIR) gắn với một loạt các công nghệ mới đang kết hợp các thế giới vật lý, kỹ thuật số và sinh học, và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế và các ngành công nghiệp. Các công nghệ này có tiềm năng tiếp tục kết nối hàng tỷ người trên web, cải thiện đáng kể hiệu quả kinh doanh và tổ chức, giúp tái tạo môi trường tự nhiên bằng cách quản lý tài sản tốt hơn.FIR phát triển đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất và quản trị. FIR sẽ tác động mạnh mẽ, toàn diện trên các phương diện chủ yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia về cấu trúc, trình độ phát triển, tốc độ tăng trưởng, mô hình kinh doanh, thị trường lao động… FIR sẽ thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức, bởi nguồn lực phát triển quan trọng nhất của cuộc cách mạng này là nhân lực có năng lực sáng tạo công nghệ. Theo đó, quốc gia nào sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao sẽ giành ưu thế cạnh tranh toàn cầu.

3. Một số kiến nghị nhằm xây dựng thành công Chính phủ kiến tạo phát triển và liêm chính ở Việt Nam

Một là, cần có sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị toàn dân.

Để xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính cần có một nhà nước kiến tạo gắn với sự đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, đột phá.Trong đó, cần tập trung hoàn thiện thể chế; rà soát toàn bộ cơ chế chính sách, hành lang pháp lý theo hướng xóa bỏ rào cản, tháo gỡ khó khăn cho người dân, cải thiện môi trường đầu tư,kinh doanh; phải chuyển mạnh hơn từ quản lý sang phục vụ người dân, doanh nghiệp và cán bộ phải gương mẫu trong lời nói và hành động, nói đi đôi với làm.Tổ chức và hoạt động của bộ máy chính phủ phải được đổi mới căn bản và triệt để hơn nữa dưới sự lãnh đạo của Đảng, chống suy thoái, ngăn chặn hiện tượng cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất bằng hệ thống thể chế đủ mạnh và hiệu quả. Đồng thời, dưới giác độ quyền làm chủ và trách nhiệm của mình, người dân cần có quyết tâm cao trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động củaChính phủ kiến tạo, liêm chính. Điều đó cần được thể hiện thông qua việc nâng cao trình độ, năng lực của bản thân; thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong tham gia các công việc chung của cộng đồng địa phương, góp ý phản biện nghiêm túc và có trách nhiệm đối với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và đất nước; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũngtại địa phương. Ý thứctrách nhiệmcao của người dân với cộng đồng và chính quyền, sẽ tạo raáp lực rất lớnđể các cơ quan công quyền phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

Thứ hai, thể chế hóa nghĩa vụ và cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình nhằm nâng cao chất lượng thực thi công vụ và phòng,chống tham nhũng

“Trách nhiệm giải trình là nhận trách nhiệm về hành động và đưa ra một cơ chế qua đó hành động đó có thể được theo dõi, đánh giá, phán xét”(8). Trách nhiệm báo cáo là trách nhiệm của một cá nhân hay tổ chức phải báo cáo những hoạt động của họ với một chủ thể nhất định như địa phương báo cáo trung ương, cấp dưới báo cáo cấp trên, đại biểu do dân bầu phải báo cáo trước nhân dân…. Trong quản lý nhà nước, trách nhiệm báo cáo và giải trình là biểu hiện của cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước. Thông qua quy định về trách nhiệm báo cáo của các cơ quan công quyền, công chức nhà nước về những hoạt động của mình trước các chủ thể theo quy định của pháp luật, họ sẽ chịu trách nhiệm tốt hơn đối với nhiệm vụ được giao và là cách thức để đo lường hiệu quả hoạt động. Các chủ thể ban hành và thực hiện quy định pháp luật không chỉ có trách nhiệm giải trình đối với cơ quan cấp trên, đối với cơ quan dân cử mà còn có trách nhiệm giải trình đối với khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội, công chúng và các bên liên quan đến các quy định.

Trách nhiệm giải trình bao gồm trách nhiệm của các chủ thể khi công khai các nội dung theo yêu cầu và việc giải thích và làm rõ các nội dung đó. Tính giải trình còn được đề cập đến với tư cách là một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch. Theo đó, yêu cầu về giải trình “nhằm bảo đảm việc cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch”(9). Trách nhiệm giải trình không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội mà còn là trách nhiệm của chủ thể quản lý với đối tượng chịu sự quản lý nói chung (trách nhiệm giải trình của  cán  bộ,  công  chức,  người  có  thẩm quyền thực thi nhiệm vụ, công vụ).

Từ góc độ bảo đảm quyền được thông tin của người dân nói chung, trách nhiệm giải trình gắn liền với trách nhiệm thông tin đến đối tượng thụ hưởng/chịu sự quản lý và được thể hiện bằng hai hình thức là giải trình chủ động và giải trình bị động. Giải trình chủ động là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thông tin, chủ động công khai nội dung hoạt động của mình. Giải trình bị động là các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin theo yêu cầu của các chủ thể có liên quan. Nhiều văn bản pháp luật của các nước trên thế giới và ở Việt Nam tiếp cận và quy định trách nhiệm này.

Giải trình của cán bộ, công chức và người có thẩm quyền thường được phân thành hai loại là: giải trình trong hệ thống (tập trung vào giải trình việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định và kiểm soát từ trên xuống - giải trình hướng lên trên) và giải trình ra bên ngoài (tập trung vào giải trình đối với kết quả hoạt động, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ trước nhân dân). Dù giải trình trong hệ thống hay giải trình ra bên ngoài thì trách nhiệm giải trình trong trường hợp này thường gắn với những vụ việc cụ thể liên quan đến trách nhiệm công vụ đã và đang được thực hiện. Do đó, trách nhiệm giải trình trong những trường hợp này rất có ý nghĩa cho việc ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi. Trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, người có thẩm quyền không chỉ là trách nhiệm giải trình việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà còn bao gồm cả giải trình về nguồn gốc tài sản phòng ngừa trường hợp “việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy”(10).

Tuy nhiên, trách nhiệm báo cáo và giải trình không thể thực hiện nếu thiếu các quy định pháp luật đầy đủ, chính xác. Vì vậy, các tổ chức cần phải có một hệ thống mục tiêu tin cậy và rõ ràng; việc sử dụng nguồn lực phải dựa trên quy trình và định mức kinh tế hợp lý; công khai thông tin về tài sản cần thiết cho hoạt động của cơ quan nhà nước, trả lương, tiêu chuẩn đạo đức công vụ; thông tin cũng cần được cung cấp đầy đủ cho các bên có liên quan. Tính công khai được đo bởi thiện chí và khả năng cung cấp hoặc giúp tiếp cận thông tin, giúp các bên liên quan đánh giá đúng và chính xác hoạt động của chính quyền địa phương. Hệ thống thể chế đó cần đảm bảo xây dựng được cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh, công khai, minh bạch và một cơ chế giải trình rõ ràng, nghiêm minh, lấy thượng tôn pháp luật làm đầu và có khả năng đo lường được.

Thứ ba, thúc đẩy tính liêm chính thông qua xây dựng các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệpphù hợp với đặc thù ngành, lĩnh vực, địa phương

Tính liêm chính được xác định cụ thể ở ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, danh dự và lương tâm nghề nghiệp. Tính liêm chính khi trở nên phổ biến sẽ tạo hiệu ứng về các chuẩn mực đạo đức công vụ, coi lợi ích chung của xã hội và cộng đồng là giá trị cao nhất cần đạt được trong thực thi công vụ trên cơ sở tuân thủ qui định của Luật.

Bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp là một tập hợp những nguyên tắc và kỳ vọng về cách hành xử chuẩn mực về trách nhiệm và về hành động mà tổ chức mong các thành viên của mình thực hiện.Bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ công chức, viên chức”. Bộ quy tắc ứng xử là tài liệu làm sáng tỏ nhiệm vụ, giá trị và nguyên tắc của tổ chức, phản ánh những giá trị mà tổ chức coi trọng nhất, góp phần ngăn chặn những hành vi phi đạo đức thông qua việc khuyến khích con người hành xử đúng đắn.

Việc ban hành và áp dụng các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra những khuôn mẫu, thước đo đối với cán bộ, công chức trong thi hành công vụ. Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp cần đưa ra những yêu cầu về mặt thái độ và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức trong khi thi hành công vụ. Đồng thời, các hình thức xử lý trách nhiệm cũng cần được quy định rõ và tương xứng nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trên thực tế. Các bộ qui tắc ứng xử này cần tính đến yếu tố đặc thù từng cơ quan, ngành, lĩnh vực, địa phương nhằm đảm bảo tính khả thi và cụ thể, rõ ràng.Bên cạnh đó, việc thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức của cán bộ, công chức về công khai, minh bạch và tính liêm chính cũng cần được coi trọng. Tính liêm chính vừa thể hiện phẩm chất của mỗi người, song cần được coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ, công chức và phát huy tinh thần trách nhiệm trong đấu tranh với những hành vi hoặc biểu hiện tiêu cực đó. Như vậy, việc nâng cao tính liêm chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện và nâng cao hiệu quả phòng ngừa, pháp hiện tham nhũng từ bên trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị.

_______________

(1) Johnson, Ch. (1999), “The Developmental State: Odyssey of A Concept”, in: Woo-Cumings, M. (ed.) (1999), The Developmental State, Cornell University Press, p.32.

(2) UN ECA and AU, Economic Report on Africa (2011): Governing Development in Africa—the Role of the State in Economic Transformation. Addis Ababa: UN ECA, http://www.uneca.org/sites/default/files/PublicationFiles/era2011_eng-fin.

(3), (4)  UNDP Ethiopia (2012), Democratization in a Developmental State: The Case of Ethiopia - Issues, Challenges, and Prospects, p.7.

(5) Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1999, tr.1018

(6) Báo cáo “Liêm chính trong thanh niên Việt Nam: Khảo sát thí điểm của tổ chức Minh bạch quốc tế”, 2014.

(7) Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ; Ngân hàng Thế giới:“Đương đầu với tham nhũng ở Châu á - những bài học thực tế và khuôn khổ hành động”, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.

(8) The CSO Terrain in the Philippines: Issues, Challenges and Prospects for CSO Governance,tr.11.

(9) VCCI: Liêm chính và minh bạch trong kinh doanh vì sự phát triển bền vững, tr.18, 23

(10) Điều 20, Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng quy định hành vi làm giàu bất hợp pháp

 

TS Đào Thị Thanh Thủy

Khoa Chính trị học,

Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền