Trang chủ    Diễn đàn    Thực chất của một số "ý kiến trao đổi, đóng góp"
Thứ năm, 28 Tháng 11 2013 14:31
2571 Lượt xem

Thực chất của một số "ý kiến trao đổi, đóng góp"

(LLCT) - Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14 (khoá X), Đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: “... đối với một số ý kiến mang động cơ xấu, lợi dụng việc góp ý để hoạt động chống đối, phá hoại, Ban Chấp hành Trung ương bày tỏ thái độ kiên quyết phê phán và dứt khoát bác bỏ”. Từ định hướng quan trọng, đúng đắn và rất rõ ràng này, có thể xem xét, phân tích và đánh giá thực chất một số ý kiến tự cho là “trao đổi, đóng góp” đề cập tới nhiều quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng ta và hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Tựu trung, những ý kiến này cho rằng: từ trước đến nay, thật ra chưa có tiền đề cho các nước kém phát triển bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tiến thẳng lên CNXH; cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta, trên thực tế chưa hoàn thành nhiệm vụ dân chủ, do dân chủ còn thấp, nên không thể có CNXH được, bởi vậy, cần từ bỏ mục tiêu XHCN để tập trung giải quyết mục tiêu dân chủ, từ bỏ cả mô hình Xôviết lẫn lý thuyết về CNXH, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin; từ bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; coi trọng sở hữu tư nhân; hướng tới các mô hình và lý thuyết phổ quát, các học thuyết tinh hoa của nhân loại; quyền lực nhà nước được phân công làm ba nhánh mà lại thống nhất ở nơi Đảng, thì không dân chủ...(!).

Dưới đây sẽ xem xét chung về các ý kiến này theo một số luận đề chính, khái quát hơn như sau:

1. Một trong những nội dung biện chứng về cách mạng và phát triển kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội rộng lớn, quan trọng nhất của thời đại ngày nay là quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Như diễn biến thực tế cho thấy, hình thái biểu hiện lịch sử cụ thể và hiện thực trực tiếp đầu tiên của tiến trình quá độ đó tại một số khu vực, quốc gia, dân tộc lại là quá độ lên CNXH không phải từ CNTB phát triển cao (Liên Xô, Đông Âu trước đây), hoặc thậm chí không phải từ CNTB nói chung (Việt Nam, Trung Quốc... từ giữa những năm 40 thế kỷ XX đến nay). Bước quá độ đặc thù này là một khả năng hiện thực trực tiếp được Đảng ta nắm bắt, lãnh đạo nhân dân đấu tranh lâu dài gian khổ, từng bước thực hiện thành công trong suốt hơn 80 năm qua kể từ khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch đường lối cách mạng độc lập dân tộc và CNXH, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào những năm 20-30 thế kỷ XX.

Trong bối cảnh đó, nếu không chuyển sang cách mạng XHCN, không đi lên CNXH khi đã hội đủ các điều kiện khách quan và chủ quan cơ bản cần thiết, thì có nghĩa là không nắm được biện chứng ấy của thời đại, đi ngược lại xu thế, quy luật lịch sử. Bởi vậy, chính là phải dựa trên cái nền lịch sử - tự nhiên khách quan, tất yếu vĩ mô này của thời đại ngày nay mà giải quyết mọi vấn đề của thực tiễn xã hội. Trong những vấn đề đó, có một phần là các vấn đề mà cách mạng tư sản và CNTB hoàn toàn chưa đề cập đến hoặc chưa thể giải quyết được. Một phần khác là các vấn đề đã được cuộc cách mạng và chế độ này giải quyết, nhưng mới chỉ theo khuôn khổ, mức độ hạn hẹp của CNTB, một hình thái xã hội mà tính phi lý trong lôgíc tồn tại cơ bản tổng thể của nó đã bị không ít nhà tư tưởng tư sản tiến bộ vạch rõ và phê phán gay gắt từ lâu.

Cần lưu ý thêm rằng, quá độ không từ CNTB hoặc CNTB phát triển cao lên thẳng CNXH nói riêng, quá độ vượt cấp lên xã hội cao hơn bỏ qua một hay một số xã hội liền kề nói chung, thật ra là chủ đề lý luận, khoa học rất rộng lớn, sâu sắc và quan trọng được Mác - Ăngghen (về sau là Lênin) quan tâm nghiên cứu sâu sắc trong một thời gian dài. Các ông đã từng nêu lên nhiều tư tưởng quan trọng về chủ đề đó gần như trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, từ khoảng giữa những năm 40 thế kỷ XIX khi viết các tác phẩm đầu tay, đến cuối những năm 80 - đầu 90 trước khi Ăngghen qua đời.

2. Đối với vấn đề dân chủ. Theo ý kiến "trao đổi, đóng góp" trên nếu không chuyển sang cách mạng XHCN thì nó sẽ được giải quyết như thế nào? Phải chăng khi đó sẽ là và chỉ có thể là giải quyết vấn đề này trong khuôn khổ cách mạng tư sản và CNTB? Hơn nữa lại là thứ CNTB phụ thuộc, hạng hai, hạng ba trong quan hệ với CNTB đế quốc phương Tây? Như vậy thì, trước hết sẽ có thể có được độc lập dân tộc thực sự không? Và sau nữa, có thể có được dân chủ thực sự cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động hay không? Thật ra, chính trong cách mạng XHCN mà vấn đề dân chủ cũng như nhiều vấn đề kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội khác được giải quyết ở trình độ cao hơn, với mức độ triệt để hơn. Hoàn toàn có thể và cần phải chuyển ngay sang cách mạng XHCN chính là để có được dân chủ sớm hơn, đầy đủ hơn, cao hơn, tức là nền dân chủ XHCN. Nền dân chủ này, đến lượt mình, lại góp phần tạo nên chế độ chính trị XHCN, đồng thời cũng thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của xã hội XHCN cùng phát triển. Ý kiến cho rằng, cần dừng lại hay quay lại cách mạng dân tộc dân chủ để có tiền đề dân chủ cho CNXH trên đã bộc lộ sự bất cập trong việc nắm bắt mối quan hệ biện chứng phức tạp trong thực tiễn chứ không phải chỉ là về lý thuyết giữa kinh tế với chính trị, kinh tế với văn hoá, chính trị với văn hoá, phát triển với dân chủ, phát triển với ổn định...

Dân chủ không phải là sự tiến bộ chung chung trừu tượng, hay giá trị và thành quả văn minh chung toàn nhân loại. Về thực chất và trước hết, đó là vấn đề có tính chính trị - xã hội, giai cấp - xã hội vừa trực tiếp, vừa sâu sắc. Trong thực tiễn lịch sử xã hội từ trước đến nay, dân chủ luôn luôn và trước hết là (tuy không phải chỉ là) của một giai cấp cụ thể nhất định. Cho đến Công xã Pari và nhất là Cách mạng Tháng Mười, thì đó luôn luôn là giai cấp thống trị, bóc lột, hữu sản. Trong xã hội cổ đại HyLa thì “dân chủ” là vấn đề thể chế chính trị nhà nước được đặt ra chỉ riêng cho trước hết là giai cấp chủ nô, sau đó là phần nào cho tầng lớp bình dân tự do. Còn giai cấp nô lệ chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư xã hội, thì thậm chí không hề được coi là “dân” và hoàn toàn đứng ngoài mọi sinh hoạt chính trị. Đến xã hội phong kiến thì mức độ giải phóng con người đối với giai cấp nông dân được nâng lên so với giai cấp nô lệ. Tuy nhiên, chế độ dân chủ, nền dân chủ chính trị cũng vẫn không hề được dành cho họ. Không những thế, dân chủ còn không được chia sẻ cho ngay cả toàn bộ giai cấp địa chủ nói chung, mà vẫn bị giới hạn theo những tầng nấc khác nhau chỉ trong giới quý tộc cầm quyền, thậm chí trong riêng hoàng tộc, hoàng triều với vị hoàng đế nắm quyền chính trị độc tôn tuyệt đối.

Trong CNTB, bản chất giai cấp của dân chủ vẫn không thay đổi. Nền dân chủ tư sản với những cơ chế phức tạp của nó, chẳng hạn việc bầu cử chính quyền, trên thực tế chỉ cho phép các tập đoàn khác nhau của giai cấp tư sản nắm quyền, còn giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động thì hoàn toàn bị gạt ra ngoài. Theo đó, đa nguyên chính trị chỉ là đa nguyên đường lối chính trị tư sản; đa đảng đối lập cũng chỉ là đa đảng tư sản tranh cử cầm quyền. Nói cách khác, đó vẫn chính là nhất nguyên hệ tư tưởng, đường lối chính trị tư sản và độc đảng cầm quyền thống trị tư sản của CNTB. Đây là điều mà ngay cả nhiều học giả, hay người dân ở các nước phương Tây cũng công khai thừa nhận, phê phán. Chẳng hạn Giáo sư Noam Chomsky ở Học viện Công nghệ Massachusetts, nhà trí thức danh tiếng Mỹ cho rằng: phe Cộng hoà và phe Dân chủ có những khác biệt nhưng không cơ bản, thực chất Mỹ là một chế độ độc đảng, và cái đảng cầm quyền là Đảng Kinh doanh(1). Hoặc Giáo sư Paul Mishler thuộc Trường đại học bang Indiana cũng viết: nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của CNTB, dù là đảng Cộng hoà hay Dân chủ(2). Hay cựu binh Mỹ Thomas A.Hutchinh thì vạch rõ: hai đảng Dân chủ và Cộng hoà đều được tài trợ bởi cùng những tập đoàn kinh tế, do đó đều cùng bảo vệ các tập đoàn này và làm thiệt hại lợi ích nhân dân. Đa đảng kiểu Mỹ không mang lại dân chủ mà chỉ loại trừ mọi quan điểm thiểu số.

Chỉ đến CNXH, thì dân chủ mới lần đầu tiên được xác lập cho số đông người dân, cho quần chúng nhân dân lao động bình thường, mới là vì họ, do họ và của họ. Chính bởi vậy, với nguyên lý mới về chất ấy, dân chủ XHCN không thể bị làm lẫn lộn với các hình thái dân chủ trước đó, cũng không thể bị bài bác hay phủ nhận chỉ bởi những trình độ phát triển, hoàn thiện dần từng bước của nó.

3. Về vai trò, tác dụng của sở hữu tư nhân, có thể nêu câu hỏi: phải chăng đây là điều kiện tất yếu hàng đầu của dân chủ? Tạm thời chưa kể đến vấn đề quan trọng, cơ bản đã phân tích trên về thực chất giai cấp - xã hội, chính trị - xã hội của dân chủ, thì câu trả lời sẽ là: có và không! , vì tư hữu đem lại quyền làm chủ cho chủ thể của nó, tức là cho người chủ sở hữu, cho người hữu sản. Còn lại là không đối với những người vô sản. Và hơn nữa là thêm một lần không khi họ phải làm thuê cho kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất. Đó là thực tế đã hoàn toàn rõ ràng, là điều hiển nhiên trong hiện thực lịch sử xã hội từ ngàn đời nay.

Đành rằng công hữu có lúc, có nơi chưa được tổ chức thực hiện chặt chẽ, hiệu quả. Nhưng như thế thì vấn đề là ở chỗ cần tổ chức thực hiện chế độ đó chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn để phát huy bản chất, tiềm năng, hiệu lực kinh tế - xã hội và chính trị - tinh thần ưu việt to lớn thực tế của nó. Đây là điều đã từng được thể hiện, hiện thực hoá sinh động, thuyết phục trong lịch sử công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam và các nước XHCN khác trước đây cũng như hiện nay trên thế giới suốt hơn 90 năm qua. Hoàn toàn không phải là cứ công hữu thì đồng nhất với, hoặc tất yếu kéo theo, tình trạng “cha chung không ai khóc”, vô chủ, kém hiệu quả, mất động lực, tham nhũng, quan liêu, thất thoát... Trái lại, những vấn nạn này nếu có, thì trước hết và chủ yếu chính là hệ lụy tiêu cực của việc tổ chức thực hiện chưa tốt chế độ công hữu. Đặc biệt, đó còn là hậu quả của việc chế độ này bị phá hoại, hình thức hoá, vô hiệu hoá, làm biến dạng, tha hoá bởi những phần tử, nhóm lợi ích hay một tầng lớp xã hội nào đó trong lòng xã hội, thậm chí trong hệ thống chính trị, kể cả ở cấp lãnh đạo đảng, nhà nước một số nước XHCN. Chúng đã rời bỏ lý tưởng cách mạng và lập trường XHCN, CSCN để ngả theo chủ nghĩa duy kinh tế, chủ nghĩa kỹ trị tầm thường và từng bước trở nên phi vô sản hoá, hữu sản hoá, tư sản hoá.

Vẫn biết chế độ công hữu có nền tảng kinh tế - kỹ thuật tương thích tất yếu của nó là lực lượng sản xuất hiện đại, phát triển cao hơn lực lượng sản xuất TBCN ở trình độ chín muồi nhất. Nhưng từ biện chứng quan trọng của sự phát triển xã hội trong giai đoạn hiện nay của thời đại quá độ chung, thì mối quan hệ này có hình thái riêng biệt đặc thù, không thể được nhìn nhận theo kiểu giản đơn, máy móc, một chiều, tăng dần đều, tỷ lệ thuận... Đó là, trong xã hội quá độ lên CNXH, nhất là quá độ không từ CNTB nói chung, hoặc CNTB phát triển cao, thì song song tồn tại với sở hữu tư nhân, tất yếu có và cần phải có cả sở hữu công cộng chiếm địa vị chi phối thống trị, mà chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là hình thái lịch sử cụ thể hiện nay của nó. Nếu không như vậy thì không còn là thời kỳ quá độ lên CNXH, không còn định hướng XHCN nữa, là đi ngược lại quy luật của lịch sử trong thời đại ngày nay, trước hết là đối với Việt Nam và các nước đã có nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, dân tộc và thời đại cơ bản, quan trọng để thực hiện quy luật này.

 Sự đề cao, tuyệt đối hoá sở hữu tư nhân không có gì khác hơn sẽ tất yếu dẫn đến việc đẩy mạnh tư nhân hoá toàn bộ hay về cơ bản nền kinh tế. Nếu điều này xảy ra, thì định hướng XHCN và CNXH sẽ mất đi cơ sở kinh tế - xã hội hàng đầu cơ bản nhất cho sự tồn tại hiện thực của mình. Lúc đó lấy gì đảm bảo rằng giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ được sở hữu một cách xứng đáng, công bằng, bình đẳng phần tài sản của họ trong khối tài sản vốn là của công; rằng sẽ không lặp lại câu chuyện cũ về tình trạng “người bóc lột người”; rằng sẽ có được nền dân chủ cho toàn xã hội, nhất là cho mỗi người dân thường trong một thị trường phi định hướng XHCN. Thị trường này nhiều khả năng sẽ là tự do cạnh tranh dã man sơ kỳ, chứ rất khó có đủ điều kiện để hy vọng trở thành “hiện đại” ngang hàng với các nước tư bản phát triển phương Tây. Tình hình tư nhân hoá ở nước Nga và các nước XHCN Đông Âu thời hậu Xôviết, hoặc hiện tượng ở nước ta, nông dân một số hợp tác xã sau giải thể, cũng như công nhân một số doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, phải bán rẻ ruộng đất và cổ phần của mình để đi làm thuê, đã đưa lại lời cảnh báo đáng suy nghĩ về điều đó.

4. Về mặt lý luận tuy đã rõ rằng, khi quan hệ sản xuất tiên tiến hơn được tạo ra một cách chủ quan, gò ép, khiên cưỡng, duy ý chí, hình thức chủ nghĩa... thì nó không thể được duy trì quá một giới hạn nào đó hoo toanogtouongmà không làm tổn hại đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; rằng quan hệ sản xuất đó không thể thúc đẩy hay kéo theo sự phát triển vô hạn của lực lượng sản xuất. Song mặt khác, trong giai đoạn hiện nay của thời đại quá độ chung, với các điều kiện cụ thể của Việt Nam và các nước XHCN khác, thì điều ngược lại, tức là sự phủ nhận hoàn toàn vị trí, vai trò, tác dụng, ý nghĩa của chế độ công hữu, cũng chính là một sai lầm cực đoan không kém của một thứ chủ nghĩa giáo điều mới, thậm chí chủ nghĩa cơ hội, xét lại về chính trị - tư tưởng và lý luận chính trị. Không ít câu trích kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất chi phối, quyết định, đã được nhiều người viện dẫn. Nhưng cũng cần nhớ rằng, chính Mác còn viết: “Hình thức giao tiếp - cái mà trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ trước đến nay được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất - là xã hội công dân”(3). Về sau này, biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế và văn hoá, kinh tế và chính trị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và kiến trúc thượng tầng chính trị - tư tưởng... cũng được Lênin tiếp tục đề cập, phân tích sâu sắc thêm trong thời đại của mình. Hơn nữa những mối quan hệ biện chứng ấy còn được xem xét một cách hệ thống, toàn diện ở cả ba trường hợp: xã hội vận động, phát triển trong khuôn khổ một hình thái kinh tế - xã hội; xã hội chuyển hoá trong thời kỳ quá độ từ hình thái nọ sang hình thái kia; và xã hội trong thời kỳ quá độ vượt cấp từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn hẳn, mà quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB nói chung hay CNTB phát triển cao, là một trường hợp cụ thể. Rất cần nhận thức sâu sắc thêm một số tư tưởng quan trọng còn nguyên giá trị khoa học và tính thời sự của Lênin về các mối quan hệ giữa: kinh tế và chính trị; kinh tế và văn hoá; cơ sở vật chất - kỹ thuật và chế độ chính trị - xã hội; thắng lợi của cách mạng XHCN ở một nước đơn độc kém phát triển với thắng lợi đó ở một loạt nước phát triển...

Thực chất của ý kiến đòi từ bỏ chủ trương xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là quan điểm duy lực lượng sản xuất, duy kinh tế, kỹ trị phiến diện thiển cận; tuyệt đối hoá thị trường nói chung, trung tính, phi bản chất kinh tế - xã hội, phi định hướng chính trị - kinh tế; coi nhẹ, bỏ qua vai trò tác dụng to lớn tích cực thực tế nhất định của nhân tố kinh tế - xã hội (quan hệ sản xuất) và các nhân tố chính trị, xã hội, văn hoá trong bất cứ hệ thống xã hội nào nói chung, xã hội XHCN nói riêng. Quan điểm này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế mới được các nước tư bản đế quốc phương Tây hô hào áp dụng cho toàn thế giới, nhất là các nước đang và chậm phát triển, nhưng lại loại trừ chính họ (phương Tây, trước hết là Mỹ).

Một mặt, chúng ta đã nhận thức rõ và kịp thời khắc phục trong thực tế sai lầm đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với thực trạng còn kém phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng mặt khác, đối với bộ phận tư liệu sản xuất chủ yếu chiếm giữ khối lượng vật chất - kỹ thuật to lớn, tích tụ hàm lượng khoa học - công nghệ hiện đại, đóng vai trò quan trọng đầu tàu trong nền kinh tế đất nước, thì đương nhiên không thể không thiết lập và duy trì chế độ công hữu. Ở đây chủ sở hữu hiện thực là nhà nước XHCN trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực tổ chức quản lý, kiểm kê kiểm soát cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến to lớn này. Nếu bộ phận tư liệu sản xuất đó trao sang tay tư bản tư nhân hoặc tư bản nước ngoài, thì cả sự lãnh đạo chính trị của Đảng lẫn việc quản lý hành chính của nhà nước để đảm bảo tính hiệu quả, vị thế độc lập và chủ quyền dân tộc của nền kinh tế quốc dân, rõ ràng sẽ mất đi cơ sở và thực lực vật chất - kỹ thuật, kinh tế - xã hội cần thiết. Điều này cũng có nghĩa là hạ thấp, bỏ rơi nhân tố XHCN trong cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, khó khăn với nhân tố TBCN ít nhất và trực tiếp là trên lĩnh vực kinh tế ở thời kỳ quá độ lên CNXH giai đoạn hiện nay.

Cũng cần thấy rằng thực trạng nền kinh tế các nước TBCN nói chung, các nước phương Tây nói riêng thì khác hẳn. Đó là những nền kinh tế TBCN toàn phần, thuần chất và đồng chất mà trong đó không hề có và không thể có nhân tố XHCN. Do vậy, bộ phận kinh tế nhà nước TBCN chỉ là của cộng đồng giai cấp tư sản, chứ hoàn toàn không phải là của toàn dân. Nó chỉ làm nhiệm vụ điều hoà lợi ích giữa các nhóm, các tập đoàn kinh tế tư sản sao cho tổng thể nền kinh tế TBCN không đổ vỡ, xung đột nội bộ quá gay gắt, nhằm hạn chế và khắc phục khủng hoảng... Kinh tế nhà nước trong CNTB có rất ít chức năng định hướng kinh tế - chính trị cho toàn bộ nền kinh tế, vì xã hội và nền kinh tế ở đó là TBCN đơn thuần. Theo ý nghĩa ấy, tưởng như CNTB không cần kinh tế nhà nước mà chỉ cần bản thân nhà nước tư sản là đủ để điều tiết nền kinh tế. Vậy mà trên thực tế, bộ phận kinh tế này vẫn luôn tồn tại và cần thiết cho CNTB. Chính vì vậy mà càng phải thấy rõ và khẳng định rằng, trong điều kiện nước ta hiện nay không thể không thiết lập, củng cố, tăng cường chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và bộ phận kinh tế nhà nước XHCN.

5. Tại các nước TBCN, việc chính đảng cầm quyền lãnh đạo, chi phối chính phủ, nhà nước, hệ thống chính trị là một thực tế hết sức rõ ràng và hiển nhiên. Chẳng hạn, trong một cuộc gặp giữa hai đoàn đại biểu cấp bộ Liên Xô trước đây và Nhật Bản, khi sự trao đổi bắt đầu liên quan đến quần đảo Kurin, vốn vẫn là vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải song phương phức tạp nhạy cảm, thì đoàn Nhật Bản đã xin phép tạm dừng làm việc để thỉnh thị ý kiến ban lãnh đạo đảng cầm quyền đang chờ sẵn ở phòng bên. Thế mới thấy trong CNTB, chính đảng cầm quyền thực hiện việc lãnh đạo, chi phối chính quyền một cách trực tiếp, chặt chẽ, sát sao như thế nào. Như vậy ở Việt Nam và các nước XHCN khác trước đây cũng như hiện nay trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thì sự lãnh đạo của đảng cộng sản lại càng là quan trọng, cần thiết. Xét theo yêu cầu, mục tiêu định hướng XHCN cho sự phát triển xã hội, dân tộc, đất nước, nhất là đặt trong sự cạnh tranh, chống phá của cả CNTB quốc tế bên ngoài lẫn các nhân tố TBCN bên trong, thì tầm quan trọng và tính cấp thiết ấy còn tăng lên gấp bội. Cần chú ý thêm rằng, những nhân tố TBCN này có thể là nội sinh chứ không phải chỉ là tàn dư của chế độ cũ. Trong đó, đặc biệt còn có cả trường hợp các nhân tố mới được hình thành lúc đầu trong xã hội mới, nhưng về sau có thể bị chuyển hoá theo quỹ đạo TBCN bởi những cơ chế, tác nhân nhất định rất phức tạp, tiêu cực và nguy hại.

Cơ chế tam quyền phân lập ở các nước TBCN, hay sự phân công các nhánh quyền lực ở Việt Nam hiện nay là thuộc về vấn đề cách thức, phương thức, phương pháp tổ chức quyền lực nhà nước. Còn quyền lực của chính đảng cầm quyền là quyền lực chính trị tổng thể vĩ mô quyết định, quy định, hoạch định đường lối phát triển đất nước, dân tộc, toàn xã hội trong cả một giai đoạn hay thời kỳ nhất định tương đối lâu dài. Đó là hai loại quyền lực không tương đồng. Nhưng chúng cũng không mâu thuẫn, loại trừ nhau mà thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau bằng những chức năng xã hội riêng, để cùng thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển xã hội theo một định hướng chính trị - xã hội, kinh tế - xã hội thống nhất, đồng bộ, nhất quán, liên tục, hiệu lực và hiệu quả đối với toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ này, một mặt quyền lực của chính đảng cầm quyền quyết định, chi phối hoạt động của nhà nước về định hướng chính trị; mặt khác, chính đảng như một tổ chức xã hội, nói chung cũng tuân thủ, thực hiện mọi quy định pháp luật về quản lý hành chính nhà nước thông thường.

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân, dân tộc, giai cấp công nhân thừa nhận và trao cho quyền lực của chính đảng cầm quyền. Điều đó được thực hiện thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua mà Đảng ta đã chiến đấu hy sinh, lãnh đạo toàn dân tộc, nhân dân và giai cấp công nhân giành nhiều thắng lợi to lớn vẻ vang. Quyền lực chính trị của Đảng không đồng nhất với quyền lực nhà nước, mà quy định, xác định, chi phối bản chất chính trị - xã hội, chính trị - thực tiễn và chính trị - tư tưởng của Nhà nước về cả tổ chức lẫn hành động. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị - pháp luật, là sự cụ thể hoá và thực hành thường xuyên trong đời sống thực tiễn xã hội hàng ngày quyền lực chính trị vĩ mô của Đảng. Quyền lực chính trị của Đảng trực tiếp xác định, hoạch định, quy định, giải quyết các lợi ích chính trị vĩ mô ở cấp độ toàn xã hội, toàn dân tộc, toàn hệ thống chính trị. Nó trực tiếp đề cập đến và giải quyết những mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, bộ ngành, địa phương, dân tộc, tôn giáo trong nước; giữa quốc gia với quốc tế; giữa các giai đoạn, thời kỳ phát triển lịch sử của dân tộc, đất nước...

Coi việc Đảng lãnh đạo cả ba nhánh quyền lực nhà nước là không dân chủ, chính là đã hạ thấp và làm lẫn lộn vai trò lãnh đạo của Đảng xuống cùng cấp độ với các thành tố khác trong hệ thống chính trị, đánh đồng quyền lực chính trị của Đảng với quyền lực nhà nước là phạm trù chủ yếu và trực tiếp mang tính chính trị - pháp luật, quản lý hành chính. Điều đó cũng thể hiện quan niệm sai lầm về hệ thống chính trị, cũng như về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị XHCN Việt Nam.

Tóm lại, các tác giả của những ý kiến dẫn lại ở phần đầu đã chuyển sang lập trường bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường XHCN, bác bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ sản xuất XHCN ở Việt Nam; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng ta; hướng sang quỹ đạo TBCN. Các ý kiến đó cũng thể hiện sai lầm, hạn chế, tính thiếu nhất quán của họ về phương diện kiến thức khoa học xã hội và lý luận chính trị thông thường. Và thật trớ trêu là, trong khi họ ra sức bài bác, công kích một “lỗi hệ thống tổng thể, căn gốc” của xã hội ta để tìm đến con đường TBCN, thì ngay các học giả Mỹ và phương Tây lại thừa nhận rõ rằng: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”(4).

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2012

(1) Theo Trang mạng Talawas.org, ngày 28-10-2008 dẫn từ: Tạp chí Spiegel, số 41/20, ngày 6-10-2008.

(2),(4) Theo Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 7-2009, tr.87-89.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.65.

 

PGS, TS Phạm Văn Chúc

Ban Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền