Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Vận dụng và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới
Thứ tư, 19 Tháng 8 2015 16:08
36816 Lượt xem

Vận dụng và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới

(LLCT) - Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển nhiều vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, nội dung và các giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ (TKQĐ), có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù quá trình nhận thức, vận dụng lý luận về TKQĐ lên CNXH ở các giai đoạn lịch sử có những lúc, những việc chưa thành công nhưng về cơ bản, đó là quá trình hoàn thiện, bổ sung, phát triển sáng tạo. Đó là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

1. Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Quan niệm về thời kỳ quá độ (TKQĐ) được C.Mác nêu ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(1).

C.Mác đã phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN) thành 2 giai đoạn: Giai đoạn thấp (TKQĐ) và giai đoạn cao - CSCN. TKQĐ hay còn gọi là giai đoạn thấp, theo ông là: Xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN), do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc của xã hội TBCN; thời kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã hội TBCN sang xã hội CSCN; công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước, đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.

Phát triển tư tưởng của C.Mác về TKQĐ, V.I.Lênin là người đầu tiên dùng khái niệm “thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. V.I.Lênin đã phân kỳ hình thái kinh tế-xã hội CSCN thành các giai đoạn nhỏ, gồm: Giai đoạn những cơn đau đẻ kéo dài (TKQĐ), giai đoạn đầu của xã hội CSCN (CNXH) và giai đoạn cao của xã hội CSCN (chủ nghĩa cộng sản)(2).

Về tính tất yếu của thời kỳ quá độCác nhà kinh điển mác xít chỉ rõ, sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự biến đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; phương thức sản xuất TBCN nhất định sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất CSCN. Tuy nhiên, các nhà kinh điển chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi lâu dài, đó là TKQĐ.

Tính tất yếu của TKQĐ được quy định bởi những đặc điểm văn hóa, xã hội khác nhau khi tiến lên CNXH. Những đặc thù đó sẽ quy định nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ và độ dài TKQĐ của mỗi nước. Mặc dù mỗi nước có những đặc trưng riêng, con đường riêng nhưng TKQĐ lên CNXH ở tất cả các nước đều có những đặc điểm chung, đó là:

Về đặc điểm của TKQĐ, C.Mác và V.I.Lênin đều phân tích trên các khía cạnh:

Về mặt xã hội. Trong TKQĐ, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen nhau giữa yếu tố của CNTB và của CNXH, giữa cái mới và cái cũ, trong khi cái cũ chưa bị tiêu diệt hẳn và vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm mống, yếu ớt, phát triển chậm chạp. V.I.Lênin còn nhấn mạnh đến tâm lý vô chính phủ, tập quán tự do buôn bán, không tuân thủ pháp luật, tệ quan liêu... Với thực trạng đó nó rất dễ tạo nên một xã hội hỗn tạp và rối loạn về xã hội và tâm lý xã hội.

Về chính trị. Đây là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là vấp phải sự phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản, vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt, giai cấp công nhân có thể bị thất bại và mất chính quyền.

Về kinh tế. Đó là sự đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và XHCN. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN, thiết lập quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, có lộ trình với những bước đi thích hợp và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Đặc điểm này đã được V.I.Lênin rút ra từ chính nước Nga trước và sau nội chiến.

V.I.Lênin cũng đã chỉ ra đặc thù kiểu quá độ lên CNXH ở các nước phương Đông. Theo V.I.Lênin, chỉ trong những nước mà giai cấp vô sản đã phát triển đầy đủ thì mới có thể “chuyển trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà không cần đến những biện pháp quá độ đặc biệt có tính chất toàn quốc”(3). Còn đối với các nước tiểu nông, quá độ lên CNXH phải qua rất nhiều chặng đường, nhiều giai đoạn và “phải bắc những chiếc cầu nhỏ”.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của Mác - Lênin về TKQĐ lên CNXH, đồng thời có sự vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về TKQĐ “là thời kỳ dân chủ mới”. Xây dựng chế độ dân chủ mới để tiến lên CNXH bao hàm trên tất cả các lĩnh vực. Về kinh tế, là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại hình sở hữu, trong đó chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; về chính trị, là xây dựng một chế độ dân chủ với hệ thống chính trị do dân cử và dân tổ chức nên, trong đó Nhà nước là Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân, một nhà nước đoàn kết dân tộc; về văn hóa, là xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng; thi hành chính sách xã hội vì toàn dân, bình đẳng và thực hiện sự phân phối theo lao động. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ mới phản ánh đầy đủ tính chất, mục tiêu, nội dung và nhiệm vụ của TKQĐ mà Mác - Lênin đã nêu và nó được định hướng “để tiến lên chủ nghĩa xã hội”, một kiểu tổ chức xã hội trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam.

Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh là gắn liền việc xây dựng CNXH với việc xây dựng chế độ dân chủ mới. Hồ Chí Minh đã vận dụng học thuyết về các hình thái kinh tế của chủ nghĩa Mác và nhìn nhận theo sự phát triển các kiểu tổ chức xã hội của loài người, trong đó dân chủ là một kiểu tổ chức xã hội, là mục tiêu mà loài người hướng tới và dân chủ được xem xét trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cách xem xét như vậy có tính toàn diện, liên tục và có tính kế thừa trong toàn bộ sự phát triển của loài người hướng tới xây dựng xã hội ngày càng dân chủ trên con đường đi lên của nhân loại.

Về các giai đoạn phát triển trong TKQĐ. Một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh là: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, đó là “đặc điểm to nhất” của nước ta khi bước vào TKQĐ lên CNXH. Đặc điểm đó chi phối mọi chương trình, kế hoạch, biện pháp, bước đi của Việt Nam phải sao cho phù hợp để xây dựng CNXH có kết quả. Đặc điểm đó cho thấy rõ mọi mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta. Với đặc điểm đó, Hồ Chí Minh xác định quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều”(4). Phải kinh qua các bư­ớc quá độ từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng, không đốt cháy giai đoạn mà nhất thiết phải tuân thủ quy luật khách quan. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh quá độ dần dần gắn liền với tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH và điều này hoàn toàn không mâu thuẫn nhau. Tiến thẳng là phương thức của sự vận động; còn tiến tuần tự, tiến nhanh là tốc độ của sự vận động đó; tuần tự từng bước là nói theo lôgíc lịch sử của sự vận động, còn tiến nhanh, tiến mạnh là muốn chỉ độ dài thời gian giữa các giai đoạn vận động. Điều này cho thấy tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh trong giải quyết các vấn đề thực tiễn. 

Về động lực phát triển trong TKQĐ lên CNXH. Tiếp thu quan điểm của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh sáng tạo phương thức, phương pháp tiến hành xây dựng CNXH, mà điều then chốt nhất là xác định động lực phát triển trong TKQĐlên CNXH. Đó là phát huy mọi nguồn lực vốn có trong nhân dân để làm lợi cho chính nhân dân theo phương châm: Đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân; biến sự nghiệp xây dựng CNXH thành sự nghiệp của toàn dân tộc, vì sự chấn hưng và phát triển toàn dân tộc, của toàn dân, của tất cả mọi ngư­ời Việt Nam yêu nư­ớc. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, các động lực của CNXH là một tập hợp nhiều nhân tố, là cả một hệ thống động lực chứ không phải là một động lực duy nhất. Các động lực phối hợp, tác động lẫn nhau chứ không tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Động lực quyết định thúc đẩy sự phát triển, luôn làm cho CNXH có sức sống, chính là con người. Theo Người: Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Con người vừa là mục tiêu, vựa là động lực của sự phát triển.

Về con đường phát triển, Hồ Chí Minh nhận thức rõ Việt Nam có đặc thù riêng, có phong tục, tập quán, lịch sử nên tất yếu, bên cạnh việc học tập kinh nghiệm của các nước XHCN khác, chúng ta cũng phải có phương pháp xây dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam, ngoài sự tác động của những yếu tố khách quan, còn phụ thuộc nhiều vào nhận thức và sự cố gắng của chủ thể. Theo Hồ Chí Minh, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được CNXH. Về mặt kinh tế, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; về mặt chính trị, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(5).

2. Sự vận dụng lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới

Từ những năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(6). Theo đó, cách mạng Việt Nam bao gồm hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền với nhiệm vụ xóa bỏ ách thống trị của đế quốc, thực dân và phong kiến nhằm giành độc lập dân tộc; cách mạng xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ đưa nước ta tiến lên CNXH bỏ qua thời kỳ phát triển TBCN. Đây là đường lối chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam.

Bước vào thời kỳ đổi mới, với phương châm, quan điểm đổi mới toàn diện các mặt, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, trong đó và trước hết là đổi mới tư duy lý luận, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh về TKQĐ lên CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Một là, về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của TKQĐ

Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta xác định rằng, từ CNTB lên CNXH tất yếu phải trải qua một TKQĐ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, do xuất phát điểm về các lĩnh vực của đời sống xã hội đều rất thấp kém, nên TKQĐ rất lâu dàikhó khăn, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Ðó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”(7). Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về TKQĐ.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) đã xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”(8).

Tổng kết 15 năm đổi mới, tại Đại hội IX, Đảng ta đã nhận thức về TKQĐ: Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ(9).Tới Đại hội XI, Đảng ta đã khái quát về TKQĐ lên CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(10). TKQĐ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái và cái mới. Đồng thời, với sự lâu dài đó, TKQĐ phải trải qua nhiều bước phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen cùng phát triển. Tư tưởng này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của TKQĐ ở nước ta.

Hai là, về mục tiêu và các giai đoạn phát triển của TKQĐ

Trên cơ sở tính chất và đặc điểm của TKQĐ, Cương lĩnh 1991 xác định “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”(11). Đồng thời, xác định rõ hơn mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ.

Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước, Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát của 5 năm (1991-1995) là: “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”(12). Và nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Đây được coi lànhững dấu mốc, mục tiêu cần đạt được củachặng đường đầu trongTKQĐ.

Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, 10 năm đầu đổi mớiđã đạt đượcnhững thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận định nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiênbắt đầu bước vào chặng đường tiếp theo của TKQĐđi lên CNXHvới nội dung trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Đại hội X của Đảng đề ra quyết tâm: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại(13).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”(14). Như vậy, có thể hình dung lộ trình, bước đi và mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ là tương đối rõ ràng. Đó là những định hướng, những tiêu chí cơ bản để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu trong suốt TKQĐ ở nước ta. Chính việc xác định cụ thể mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho từng giai đoạn là sự thể hiện nhận thức mới của Đảng về TKQĐ lên CNXH ở nước ta.

Ba là, về cơ cấu kinh tế, xã hội và các hình thức sở hữu trong TKQĐ

Về cơ cấu xã hội, trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ hơn trong TKQĐ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, những cơ cấu, tính chất, vị trí các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ðộng lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Ðảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Về cơ cấu kinh tế và các hình thức sở hữu trong TKQĐ, Đảng ta xác định nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao độngvà hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.

Về phương diện xã hội, văn hoá, tư tưởng, TKQĐ là thời kỳ đan xen các giá trị văn hóa XHCN và cả những giá trị văn hóa phi XHCN, cả những nhân tố mới tích cực và cả những nhân tố tiêu cực vẫn còn tồn tại. Trong xã hội còn đan xen các luồng tư tưởng khác nhau nhưng lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh là nền tảng tư tưởng của xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

Bốn là, về cách thức bỏ qua chế độ TBCN trong TKQĐ

Những năm đầu đổi mới, chúng ta xác định “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, đếnĐại hội IX, sau 15 năm đổi mới, Đảng ta có bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua chế độ TBCN“tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(15).

Đặc biệt, trong quá trình vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có những nhận thức mới như giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đó là khi lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là một sự phát hiện, bổ sung đáng kể vào lý luận Mác - Lênin, là kết quả của sự đổi mới tư duy của Đảng ta về CNXH, về mối quan hệ giữa CNXHvà CNTB, là sự tiếp nối các giá trị phát triển của văn minh nhân loại để từ đó bước lên nấc thang cao hơn là CNXH. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, duy ý chí, nóng vội, phi quy luật mà trước đây đã mắc phải.

Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển nhiều vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, nội dung và các giai đoạn phát triển trong TKQĐ, có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Mặc dù quá trình nhận thức, vận dụng lý luận về TKQĐ lên CNXH ở các giai đoạn lịch sử có những lúc, những việc chưa thành công nhưng về cơ bản, đó là quá trình hoàn thiện, bổ sung, phát triển sáng tạo. Đó là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2014

(1) C.MácvàPh.Ăngghen:Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, tr.47.

(2) Xem V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.223.

(3) Sđd, t.43, tr.69.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.228.

(5) Sđd,t.8, tr.174.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.2. 

(7) Sđd,t.47, tr.374.

(8), (11),Sđd, t.51, tr.133, 136.

(9), (15) Xem ĐCSVN: Văn kịên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84, 84.

(10), (14) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.

(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.60.

(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.76.

 

PGS, TS Lê Kim Việt

Viện Xây dựng Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền