Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Thành tựu và kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Thứ hai, 21 Tháng 12 2015 11:11
17422 Lượt xem

Thành tựu và kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

(LLCT) - Khái niệm “Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994): “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Sau hơn 20 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. 

Trên bình diện nghiên cứu cơ bản đã đạt được sự thống nhất trong việc xác định sự cần thiết, bản chất, vai trò, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Về mặt quyết tâm chính trị, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Trên phương diện lập pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nguyên tắc hiến định. Dưới góc độ chính trị - pháp lý có thể khái quát những thành tựu cơ bản của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như sau:

Một là,Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập một số nguyên tắc cơ bản, là nền tảng tư tưởng và quan điểm cho việc kiến tạo một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.  Đó là các nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân; Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không chỉ dừng ở những chủ trương chính trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013- Đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước. Điều này, đòi hỏi trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải không ngừng quán triệt, vận dụng và hiện thực hóa những nguyên tắc hiến định.

Hai là, xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan xét xử, hoạt động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của Nhà nước là trụ cột, trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng của Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân.

Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung tâm của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của các bộ phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối, sang là người có vai trò định hướng, điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước đang trở thành người bảo trợ, xúc tác, tạo lập môi trường, huy động các nguồn lực và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực và khuyết tật của kinh tế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Mặt khác, quá trình xã hội hóa đang được đẩy nhanh, từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường vai trò và khả năng độc lập của các thiết chế chính trị - xã hội theo hướng tạo ra những chủ thể bình đẳng và có tư cách kiểm soát hoạt động của Nhà nước.

Ba là, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt được nhiều kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt những kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá: trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải quyết…

Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá trình thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN trên cả phương diện chính trị và pháp lý.

Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các kênh, các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền XHCN.

Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện ở ba bộ phận trọng yếu: 1) lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội của nhân dân; 2) lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 3) lãnh đạo kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được cải tiến theo hướng ngày càng có nhiều cách làm nhằm thực hiện và mở rộng dân chủ trong quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân (ứng cử tự do, công khai các cuộc họp của Quốc hội, công bố các dự thảo luật để nhân dân góp ý, công bố nội dung các kỳ họp của Chính phủ...); các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo. Theo hướng đó, hoạt động của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thể hiện ngày càng rõ hơn tính chất pháp quyền. Vai trò của các tổ chức nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao.

Đảng bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị.

Năm là, về phương diện tổ chức quyền lực, Đảng lãnh đạo đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước theo hướng minh bạch, cụ thể các bộ phận thực hiện quyền lực và mối quan hệ giữa các cấp chính quyền.

Cùng với sự khẳng định về sự thống nhất của quyền lực nhà nước và sự tồn tại của ba bộ phận quyền lực trong mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước thì việc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng thể hiện rõ hơn. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền nói chung, của từng loại cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy nhà nước đang được triển khai có kết quả:

Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Quốc hội

Hoạt động lập pháp đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong xây dựng các đạo luật, nghị quyết, pháp lệnh, đã kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng và chức năng giám sát tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.

Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Chính phủ

Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua chủ trương, đường lối và các phương thức khác để định hướng hoạt động, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ với các cơ quan Trung ương và giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Thông qua đó, Đảng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động và cơ chế điều hành của Chính phủ, bảo đảm cho Chính phủ thực hiện được quyền hành pháp, đồng thời phải bảo đảm được tính định hướng chính trị thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng.

Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp

Đảng xác định đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp trong mối liên hệ với khâu trung tâm là xét xử theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Đó là các yêu cầu về tính độc lập, khách quan, phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, dân chủ, minh bạch. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng, các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong thời gian qua đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động, đa dạng hóa mô hình của chính quyền địa phương các cấp

Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra bước tiến lập pháp quan trọng, làm nền tảng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng đa dạng hóa các mô hình, gắn với thực tiễn và điều kiện tổ chức chính quyền đô thị, mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.

Từ thực tiễn của tình hình lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thời gian qua có thể đúc rút một số kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, phát huy dân chủ, tạo dựng cơ chế nhân dân tham gia và đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Hoàn thiện cơ chế để tiếp cận với nhiều quan điểm khác nhau, phát huy được trí tuệ, vai trò giám sát của các tầng lớp nhân dân và giảm thiểu các khiếm khuyết trong ban hành và thực thi các quyết sách. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế tham gia đóng góp ý kiến của các tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức cho các dự thảo nghị quyết của Đảng; xây dựng chính sách, pháp luật và quyết sách những vấn đề quan trọng của đất nước, những vấn đề nóng bỏng có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân, những vấn đề được dư luận quan tâm.

Thứ hai, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng Nhà nước pháp quyền trên thế giới

Trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền của thế giới. Những quan điểm, nội dung và phương thức cầm quyền được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Đặc thù cách mạng XHCN Việt Nam thể hiện đặc thù của bản chất, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; và đó cũng là đặc điểm của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, dù là đặc điểm nào, thì những vấn đề có tính bản chất, có tính nguyên tắc, cả về nội dung, phương thức, cách thức của nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn phải bảo đảm tính chung, tính phổ quát.

Thứ ba, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước phải giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị và cầm quyền lãnh đạo bằng pháp luật.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta là công việc hoàn toàn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng. Công cuộc xây dựng xã hội và nhà nước không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng của các nước phương Tây với các thể chế chính trị khác thể chế chính trị ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải bảo đảm nguyên lý của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền.

Đảng Cộng sản Việt Nam là những người tự nguyện tổ chức và hoạt động, đấu tranh thực hiện mục tiêu CNXH - thực hiện lý tưởng là xây dựng Việt Nam trở thành một nước: giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là khía cạnh truyền thống về tính chính đáng chính trị của Đảng ta. Tính chính đáng của Đảng ta cũng thể hiện rõ nét ở uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả lãnh đạo - phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích nhân dân. Tuy nhiên, để tiến nhanh cùng với xu thế phát triển xã hội hiện đại, sự cầm quyền của Đảng trong quan hệ với xây dựng Nhà nước pháp quyền cần không ngừng đổi mới: quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực Nhà nước và đặc biệt là quyền lực của nhân dân.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền phải luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ quyền con người.

 Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay phải bảo đảm Nhà nước tồn tại để phục vụ nhân dân, chứ không phải nhân dân tồn tại để phục vụ nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước phải là người bảo vệ quyền công dân, bảo vệ quyền con người, chứ không phải để hạn chế công dân thực hiện quyền dân chủ của mình. Mức độ dân chủ của xã hội được đo bằng chất lượng quyền công dân, quyền con người mà người công dân có thể thực hiện trên thực tế; mức độ tiến bộ xã hội cũng thể hiện ở trình độ tổ chức và vận hành của nhà nước pháp quyền theo hướng chủ quyền nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.

Thứ năm, thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới, từng bước làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền phải luôn chú trọng việc lựa chọn, giới thiệu đội ngũ cán bộ của Đảng có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng vào các chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức là đảng viên và xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ đảng viên vi phạm pháp luật. Đảng có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên, thậm chí kể cả những cán bộ đảng viên giữ những trọng trách quan trọng trong hệ thống chính trị.

___________________

Bìa đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2015

PGS, TS Trịnh Đức Thảo

Viện Nhà nước và Pháp luật,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền