Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    85 năm vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Thứ hai, 21 Tháng 12 2015 11:14
18597 Lượt xem

85 năm vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam

(LLCT) - Trên tám thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách toàn diện trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Nhờ đó, quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện cách mạng XHCN ở Việt Nam đạt được những thắng lợi vô cùng to lớn.

 

 

 

Trên tám thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện cách mạng XHCN ở Việt Nam với những thắng lợi vô cùng to lớn. Trong lúc đất nước ta đang bế tắc về đường lối chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường của cách mạng Việt Nam và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc khẳng định giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đối với cách mạng vô sản ở các nước tư bản mà cả ở cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Do ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và các thế lực thù địch khác ra sức bôi xấu, xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái Quốc vừa bảo vệ giá trị của Cách mạng Tháng Mười vừa tuyên truyền làm cho nhân dân lao động ở các nước thuộc địa nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần phải nhận thức và hiểu đúng giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin để truyền bá vào Việt Nam và các nước thuộc địa, để thức tỉnh các dân tộc thuộc địa đấu tranh một cách tự giác dưới sự hướng dẫn của lý luận Mác - Lênin, song việc truyền bá lý luận không được cứng nhắc, câu chữ, sách vở mà truyền bá tinh thần và phương pháp của học thuyết đó, làm cho các dân tộc và mọi người có thể hiểu thấu và hành động đúng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng trên thế giới như cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, nhưng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, giải phóng dân tộc và mang lại lợi ích cho người lao động. Từ nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự ra đời và ngày càng trưởng thành, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 85 năm qua đã minh chứng rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta không những vận dụng sáng tạo mà còn luôn bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -  Lênin trong các giai đoạn cách mạng. Từ thực tiễn đó, Đại hội VII của Đảng (1991) đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, yêu cầu toàn Đảng và mỗi đảng viên phải hiểu và nhận thức đầy đủ cội nguồn, bản chất, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trên thực tế có thể khẳng định, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách toàn diện trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, cụ thể:

1. Về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ, sự ra đời của các Đảng Cộng sản có quy luật chung, nhưng đặc điểm của mỗi nước đòi hỏi phải có con đường riêng biệt. Tình hình Việt Nam hoàn toàn khác với nước Nga và các nước châu Âu; làm thế nào để thành lập được một đảng vô sản ở một nước với nền nông nghiệp lạc hậu, dưới sự đô hộ của thực dân, phong kiến trong suốt nhiều thế kỷ như Việt Nam là vấn đề mới và khó. Hồ Chí Minh đã nhận thức được những điều kiện lịch sử mới, đặc điểm mới của phong trào yêu nước ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước theo hướng CNXH lại có chuyển biến mạnh mẽ, số lượng giai cấp công nhân rất ít,... Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào đầu năm 1930 là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Tổng kết kinh nghiệm 30 năm xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930”([1]1). Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là sản phẩm tất yếu của lịch sử, là vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ khi ra đời, Hồ Chí Minh đã giáo dục rèn luyện và xây dựng Đảng ta thành một Đảng Mác - Lênin vững mạnh, không ngừng phát triển và ngày càng vĩ đại. 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu vô cùng to lớn, kể khi ra đời, mới 15 tuổi, với vài nghìn đảng viên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa, xóa bỏ chế độ phong kiến, đập tan ách thống trị xâm lược của thực dân, đế quốc, giành chính quyền thắng lợi. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, thành lập Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; tiếp tục giành chiến thắng trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1954), chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược vào mùa Xuân 1975 và những kẻ thù xâm lược, góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN. Chính chiến thắng thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ và chiến thắng đế quốc Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao mới. Cũng từ đây, nhiều nước trên thế giới mới biết đến Việt Nam, ca ngợi và ủng hộ Việt Nam. Đặc biệt, thắng lợi của công cuộc đổi mới gần 30 năm qua do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đến nay đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào chặng đường phát triển mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, hợp tác quốc tế... Có được thắng lợi trên, yếu tố quan trọng, quyết định trước hết là Đảng đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng, của đất nước, luôn luôn kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh đất nước, coi trọng phân tích đặc điểm, hoàn cảnh thực tiễn làm điểm xuất phát cho việc hoạch định đường lối, nhiệm vụ chính trị. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh việc nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, học tập phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp khoa học và sáng tạo. Bên cạnh yếu tố nêu trên, một trong những yếu tố quan trọng, quyết định thắng lợi của Đảng, của cách mạng là ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên tốt, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng Cộng sản Việt Nam, với nhân dân, có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiên phong gương mẫu trong lao động sản xuất, dám hy sinh anh dũng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, dám xả thân vì dân, vì nước.

2. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện vừa đấu tranh giải phóng dân tộc vừa thực hiện cách mạng XHCN ở Việt Nam. Đặc biệt là tư tưởng của Hồ Chí Minh sáng tạo luận điểm: về khả năng thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa trước cách mạng ở các nước chính quốc; về quan hệ giữa cách mạng ở chính quốc với cách mạng ở các nước thuộc địa. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Qua thực tiễn cách mạng, Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm quý báu: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH... Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”(2). Sự sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc từ một nước nhỏ bé, với nền nông nghiệp lạc hậu, một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới ách áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên CNXH. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta”(3). Phải tiến hành quá trình biến đổi đó trong “những điều kiện đặc biệt ở nước ta”. Đó là một xã hội vừa thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, phong kiến. Người chỉ rõ: trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên CNXH? Đó là vấn đề đặt ra trước mắt của Đảng ta. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn bớt mò mẫm, đỡ sai phạm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có thế, chúng ta mới hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương hướng, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận chung của Đảng, trước hết là cán bộ cốt cán của Đảng. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về CNXH hết sức rõ ràng, cụ thể, đó là: CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc; CNXH là làm cho mọi người dân ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ và Người nhấn mạnh: muốn tiến lên CNXH thì phải cải tạo xã hội cũ thành một xã hội mới, một xã hội không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng... Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tiến lên CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần; Tiến lên CNXH không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục. Đảng ta đã xác định tiến lên CNXH thể hiện quan điểm, mục tiêu nhất quán trong đường lối chính trị của Đảng, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và không thể không trải qua nhiều chặng đường và cần phải qua những bước đi trung gian quá độ khác nhau. Mọi sự ấn định về thời gian đều có thể phạm sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI khởi xướng, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đổi mới tư duy kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đổi mới phương pháp, phong cách công tác... Từ tổng kết công cuộc đổi mới, Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) đề cập 6 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, đó là: “Xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”(4). Đến Đại hội X, Đảng ta đã có bước phát triển trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011),quan niệm về CNXH đã hoàn thiện hơn với 8 đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).

3. Trên lĩnh vực phát triển nền kinh tế đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Ngay từ thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập và phát triển 5 loại kinh tế (thành phần kinh tế) khác nhau ở nước ta đó là: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa XHCN và sẽ tiến lên CNXH).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản. Với sự tồn tại của các thành phần kinh tế, chính sách của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, song Đảng ta, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ về quan hệ chủ - thợ: “Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột, nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”. Quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đây chính là sự vận dụng lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, nhất là luận điểm của Lênin về sự tồn tại, đan xen các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VI - Đại hội đổi mới đã khẳng định trước hết phải đổi mới tư duy kinh tế, xác định nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VII và các Đại hội tiếp theo, Đảng đã xác định rõ hơn: Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đồng thời cụ thể hóa một bước về chế độ công hữu và các tư liệu sản xuất chủ yếu. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Đây chính là mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH; cũng chính là sự vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày nay, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, Đảng ta, đất nước ta đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn. Tình hình thế giới ngày càng có nhiều biến động phức tạp khó lường, đặc biệt từ khi chế độ XHCN và các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, tan rã, hệ thống XHCN trên thế giới khủng hoảng lâm vào thoái trào, các Đảng Cộng sản chân chính giữ vai trò lãnh đạo còn rất ít, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã giành được những thắng lợi to lớn, Đảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, đã được Đảng chỉ ra trong nhiều văn kiện Đảng, đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, làm giảm uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. Mặc dù trong từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta đều có tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm quá trình lãnh đạo của Đảng, rút kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trên thế giới, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng, đề ra các giải pháp để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; rút ra các bài học kinh nghiệm cả thất bại và thành công, một trong các bài học đầu tiên Đảng ta rút ra: “Đảng phải lấy dân làm gốc” (Đại hội VI), Đảng phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, Đảng tuyệt đối tin vào dân, dựa vào dân, gắn bó mật thiết với dân như cá với nước để tạo thành sức mạnh to lớn đập tan mọi kẻ thù xâm lược và tiến tới thắng lợi vinh quang. Đảng phải chăm lo xây dựng tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên - tế bào của Đảng trong sạch, vững mạnh có đạo đức trong sáng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng, với chế độ XHCN, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình, phê bình trong Đảng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực thực tiễn để có đủ trình độ lý giải một cách khoa học con đường tiến lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, lý giải và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống đang đặt ra; đấu tranh, phê phán, phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta; Đảng luôn quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên, quy định những điều đảng viên không được làm, quy định kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên hàng năm, tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân, cán bộ cấp dưới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; thực hiện dân chủ, công khai minh bạch các hoạt động của các tổ chức và cá nhân cán bộ công chức để kịp thời gạt bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất, mưu cầu danh lợi, địa vị cá nhân, tham ô, tham nhũng... ra khỏi Đảng, xây dựng và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sức mạnh của Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển cả số lượng và chất lượng. Nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là tiếp tục làm tốt công tác xây dựng Đảng, luôn kiên định, bảo vệ và vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, giúp Đảng phát huy những thành quả đã đạt được, kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, nhằm xây dựng thành công CNXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2015

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.8.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.

(3) Sđd, t.8, tr.493.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.111.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.

 

PGS, TS Trương Thị Thông

Phó Giám đốc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Min

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền