Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Giá trị đặc sắc, bền vững trong tư tưởng của V.I. Lênin về dân chủ
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 15:44
19744 Lượt xem

Giá trị đặc sắc, bền vững trong tư tưởng của V.I. Lênin về dân chủ

(LLCT) - V.I. Lênin, nhà bác học thiên tài, vị lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các dân tộc tiến bộ trên toàn thế giới. Người đã bảo vệ, phát triển sáng tạo và từng bước hiện thực hóa chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Trong di sản đồ sộ mà Người để lại cho chúng ta, tư tưởng về dân chủ, dân chủ XHCN, vượt qua thách thức của thời đại, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng.

 

Dân chủ trong xã hội có giai cấp là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc và là chủ thể của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Thuật ngữ Dân chủ, đã từng xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thứ IV trước Công nguyên tại Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, dân chủ (dimokratia) nghĩa là quyền lực của nhân dân. Trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ bị biến dạng, bị chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền; dân chủ mất dần giá trị là quyền lực của nhân dân. Các giai cấp thống trị đã nhân danh cộng đồng, nhân danh lợi ích chung định ra thể chế chính trị (pháp luật, tổ chức và cơ chế) thao túng mọi quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trở thành hình thức, còn thực chất là “quan chủ” .

Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để định nghĩa thuật ngữ “democracy”, là “chính thể dân chủ” với đặc trưng là: chính quyền nhà nước phải thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân.

Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã chỉ rõ: Từ “dân chủ” nếu chuyển qua tiếng Đức thì có nghĩa là “nhân dân nắm chính quyền”(1).

Như vậy, dân chủ chính là một chính thể nhà nước (chế độ nhà nước) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong chính thể nhà nước ấy, nhân dân là chủ thể; nhân dân là người tạo nên nhà nước, tuyệt nhiên không phải nhà nước tạo nên nhân dân. C.Mác chỉ rõ: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước”(2). Hơn nữa, C. Mác còn chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của chính thể nhà nước dân chủ là chế độ dân chủ mà ở đó, pháp luật do con người tạo ra và tồn tại vì con người: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là pháp luật, trong khi đó thì ở những hình thức khác nhau của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được bởi quy định của luật pháp. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”(3).

Theo C.Mác, trong thời đại TBCN, khi dân chủ là mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản, “Giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng, công nhân là giai cấp vô sản tự tổ chức thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ”(4), thì dân chủ được xem là một chính thể nhà nước, vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng, với những đặc trưng cơ bản: (1) là chính thể nhà nước do nhân dân tạo ra để phục vụ nhân dân ; (2) là chính thể nhà nước do nhân dân là chủ thể, nắm quyền; (3) là chính thể nhà nước được tổ chức, vận hành theo pháp luật do nhân dân tạo ra và vì nhân dân mà tồn tại.

Bảo vệ và phát triển quan điểm của C.Mác về dân chủ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, trong nhiều tác phẩm, V.I.Lênin đã luận giải một cách toàn diện, trong đó tập trung làm rõ bản chất, hình thức của dân chủ và dân chủ XHCN:

Trước hết, theo V. I. Lênin, dân chủ là một giá trị về tự do, bình đẳng, là sự thống trị của đa số

Dân chủ là một giá trị căn bản, đích thực của văn minh nhân loại, là sự biểu đạt thành quả của cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột giành quyền tự do, bình đẳng trên thực tế; là sự phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng của con người trong bước chuyển từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc của tự do”. Dân chủ cũng chỉ tồn tại trong hình thái nhà nước thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân; thừa nhận sự thống trị của đa số”(5). Trong Mười đề cương về chính quyền Xôviết, V.I.Lênin coi dân chủ là tự do, bình đẳng là quyết định của đa số: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”(6). Dân chủ nói một cách cụ thể là: (1) Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; (2) Tự do chính trị cho mọi công dân; (3) Quyết định theo đa số của mọi công dân; (4) Quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ hòa bình hoặc dân chủ thuần túy v.v..”(7).Với ý nghĩa là giá trị, dân chủ không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính toàn nhân loại, gắn liền với trình độ văn minh mà con người đạt được, gắn liền với khát vọng tự do, bình đẳng và trình độ đạt được của con người trong cuộc đấu tranh giải phóng chính bản thân con người khi đồng thời giải phóng xã hội.

Thứ hai, dân chủ là một trong những hình thức nhà nước, là phạm trù lịch sử

V.I. Lênin nhiều lần khẳng định rằng “chế độ dân chủ” là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Trong tác phẩm Nhà nước và Cách mạng, Lênin cho rằng, dân chủ chỉ là một trong hình thái nhà nước: “chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái nhà nước”(8). Trong lịch sử nhà nước, đã từng có nhà nước độc tài - nhà nước phong kiến; có nhà nước dân chủ - nhà nước dân chủ chủ nô, nhà nước dân chủ TBCN và nhà nước dân chủ XHCN. Là hình thái nhà nước nên dân chủ là phạm trù chính trị, có tính lịch sử gắn với sự ra đời và tồn tại của nhà nước trong điều kiện lịch sử nhất định. Gắn với nhà nước, nên khi nhà nước tiêu vong thì dân chủ với tư cách là chính thể nhà nước cũng tiêu vong: “chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó, nhà nước mà mất đi thì chế độ dân chủ cũng mất theo”(9). Và như vậy, sẽ không có cái gọi là dân chủ thuần túy, phi giai cấp:  “Nếu không khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ chừng nào mà còn những giai cấp khác nhau, thì không thể nói đến “dân chủ thuần túy” được, mà chỉ có thể nói đến dân chủ có tính giai cấp (xin nói thêm rằng “dân chủ thuần túy” không những là một công thức của kẻ ngu dốt không hiểu một tý gì về đấu tranh giai cấp, về bản chất của nhà nước, mà còn là một công thức hết sức rỗng tuếch nữa)”(10).

Thứ ba, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực, đồng thời là phương thức thực hiện quyền thống trị chính trị của giai cấp công nhân

Với tư cách là mục tiêu của cách mạng vô sản, dân chủ chính là chế độ nhà nước mà giai cấp vô sản phải hướng tới, giành lấy để thực thi quyền thống trị chính trị của mình: “Trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản”(11). Chính vì vậy, chính quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.

Với tư cách là động lực, thực hiện dân chủ hóa xã hội là khẳng định và phát huy quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu và tính thượng tôn pháp luật, tạo sức mạnh tổng hòa của tự do cá nhân và đồng thuận xã hội, góp phần khơi dậy, phát huy và nhân lên sức mạnh của cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội, điều mà V.I.Lênin đặc biệt khẳng định về sức mạnh của quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh đã diễn giải điều này một cách hết sức dễ hiểu mà sâu sắc:

“Dễ mười lần không dân cũng chịu,

Khó trăm lần dân liệu cũng xong”

Với tư cách là phương thức để giành quyền thống trị chính trị, dân chủ là cách tốt nhất(12), bằng cách thực hiện chế độ dân chủ triệt để giành được thắng lợi: “Giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi bằng cách nào tốt hơn là thông qua chế độ dân chủ, nghĩa là bằng cách thực hiện chế độ dân chủ triệt để và đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên quyết nhất mà gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh của họ”(13).

Thứ tưXô viết là chính thể dân chủ nhất trong lịch sử, là cơ quan gần dân nhất, có thể tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ tham gia sinh hoạt chính trị

Theo V.I.Lênin, trong lịch sử đã xuất hiện chế độ dân chủ công xã, hình thức nhà nước dân chủ đầu tiên theo C.Mác, rút cuộc đã tìm ra. Mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày, song dưới chế độ công xã, công nông thực sự là chủ thể, có quyền tự do, bình đẳng. Là hình thức dân chủ đầu tiên và chỉ tồn tại trong thời gian quá ngắn nên chế độ công xã không tránh khỏi những hạn chế, như Lênin đã chỉ ra: “Công xã không nên là một cơ quan đại nghị, mà phải là một cơ thể hành động, vừa hành chính, vừa lập pháp”(14)

Khắc phục những hạn chế của công xã, xôviết là một hình thức, một kiểu chế độ dân chủ vô sản gần gũi với quần chúng lao động đã được thiết lập ở Nga năm 1917. Xôviết tựu trung là một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng cao hơn, chính là vì do chỗ nó tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ tham gia sinh hoạt chính trị, nên đó là cơ quan gần dân nhất(15).Xôviết đã khắc phục những hạn chế khó tránh khỏi của công xã “Công xã Pari đã xóa bỏ, và từ lâu chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính chất hẹp hòi và hạn chế của nó, nhất là chế độ đại nghị, về việc tách rời quyền hành pháp ra khỏi quyền lập pháp. Hợp nhất hai quyền ấy lại, các xôviết làm cho bộ máy nhà nước gần gũi với quần chúng lao động...”(16). Trong chế độ xôviết, mặc dù quần chúng công nông chưa thực sự hiểu thấu đáo, thậm chí còn mơ hồ về dân chủ, song với họ dân chủ đã bao hàm khát vọng về bình đẳng: “Mặc dầu quần chúng không phải bao giờ cũng hiểu được rõ ràng cái ý nghĩa duy nhất chính xác đó của dân chủ nhưng đối với họ, cái khái niệm dân chủ đã bao hàm khát vọng, tuy còn mơ hồ về bình đẳng xã hội”(17). Vì vậy, V.I.Lênin yêu cầu: “Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại”(18).

Xôviết - hình thức nhà nước dân chủ, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhà nước ấy từng bước đáp ứng những yêu cầu củanhà nước dân chủ XHCN: (1) Nhà nước do nhân dân lập ra thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu; (2) quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền; (3) mọi hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân và phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; (4) nhân dân có quyền bày tỏ sự tín nhiệm và bất tín nhiệm với các cơ quan nhà nước.

Về bản chất, Nhà nước Xôviết là nhà nước XHCN, nền dân chủ XHCN, đây là nền dân chủ phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mà trước hết là giai cấp công nhân, nông dân, những người bị áp bức. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ XHCN là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất của dân chủ XHCN rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, Xôviết - Nhà nước dân chủ XHCN vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

Vậy là, quan niệm của V.I.Lênin về dân chủ vừa khoa học, sáng tạo và cách mạng triệt để nhất, nó không chỉ đối lập với thứ dân chủ tư sản giả hiệu, mà nó còn được hiện thực hóa trong cuộc sống với những mức độ khác nhau. Và, cũng chính vì sự cách mạng triệt để ấy mà ngay từ khi ra đời đã bị các thế lực thù địch chống trả, phản bác quyết liệt.

Hiện nay, khi mà CNXH đang trong tình trạng thoái trào, những tư tưởng về dân chủ của V.I.Lênin cũng đứng trước những thử thách quyết liệt. Các thế lực thù địch thường vin vào luận điểm của V.I.Lênin về bản chất của dân chủ XHCN gấp triệu lần dân chủ tư sản để tấn công, phản bác lại.

Khi đưa ra luận điểm dân chủ XHCN gấp triệu lần dân chủ tư sản, V.I.Lênin đã chứng minh bằng lý luận và thực tiễn:

Thứ nhất,quan niệm về dân chủ của V.I.Lênin không những không mâu thuẫn với các quan niệm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại mà còn là bước kế thừa và phát triển trong điều kiện mới, tức là trong điều kiện cần phải giáo dục cho giai cấp công nhân và đảng của nó hiểu được bản chất của dân chủ và nhiệm vụ của mình trong quá trình thiết lập một nền dân chủ mới, nền dân chủ XHCN. Để có nền dân chủ XHCN, giai cấp công nhân và đảng của nó không chỉ giác ngộ về “dân chủ” mà phải xây dựng một “chế độ dân chủ”, phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v.. Đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen trước đây cũng vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản: “Chế độ dân chủ (tức là dân chủ tư bản chủ nghĩa), giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối... Tự do chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ, giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng sản”(19).

Thư hai, từ thực tế của chế độ xôviết so với  thực tế chế độ dân chủ tư sản, ngay cả ở các nước tư bản dân chủ nhất, V.I.Lênin đã chỉ ra tính dân chủ XHCN triệu lần hơn dân chủ tư sản

Trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, không dưới ba lần, V.I.Lênin khẳng định nền dân chủ vô sản hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền xô viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ nhất, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”(20).

Sau khi đánh đổ chế độ Nga hoàng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã xóa bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền cũ, xây dựng hệ thống chính quyền mới gọi là các “xô viết”, về thực chất, quyền lực của các xôviết này là do giai cấp công nhân và nhân dân lao động quyết định. Với cách tổ chức bộ máy như vậy, V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ một sự thật đó cũng đủ cho tất cả mọi giai cấp bị áp bức thừa nhận rằng chính quyền xô viết, cái hình thức ấy của chính quyền vô sản, còn một triệu lần dân chủ hơn là nước dân chủ nhất trong số các nước cộng hòa tư sản”(21).

Trong khi đó ở các nước TBCN, kể cả các nước tư bản dân chủ nhất thì cũng không bao giờ người dân có được quyền tự do: “Trong số các nước tư bản dân chủ nhất, thử hỏi có lấy một nước nào trên thế giới mà trong đó, người công nhân hạng trung, người công nhân thông thường, người cố nông hạng trung, người cố nông thông thường, hay nói chung, người nửa vô sản ở nông thôn (tức người đại biểu cho quần chúng bị áp bức, cho đại đa số dân cư) lại được hưởng gần như là một quyền tự do rộng rãi như ở nước Nga xôviết để có thể tổ chức các cuộc họp trong những tòa nhà tốt nhất, một quyền tự do rộng rãi như thế để có thể sử dụng những nhà in lớn nhất và những kho giấy tốt nhất nhằm mục đích diễn đạt tư tưởng của mình, bênh vực quyền lợi của mình...”(22). Trong khi đó, dưới chính quyền xôviết, các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí... được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động: “quyền tự do xuất bản không còn là một cái gì giả dối nữa, vì các nhà in giấy đã được tước đoạt khỏi tay giai cấp tư sản. Các lâu đài, các dinh thự, các tư thất, các nhà ở tốt nhất... cũng thế. Chính quyền xô viết đã tước ngay một lúc hàng nghìn những nhà cửa tốt nhất của bọn bóc lột, và chính như vậy chính quyền xôviết đã làm cho quyền hội họp của quần chúng được gấp triệu lần “dân chủ” hơn”(23).

Thứ ba,V.I.Lênin đã phản bác luận điệu cho rằng dân chủ tư sản là dân chủ thuần túy, phi giai cấp

V.I.Lênin luôn khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước, của chế độ dân chủ, rằng nhà nước dân chủ tư sản là nhà nước của thiểu số, phục vụ thiểu số: “Nếu không khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ chừng nào mà còn những giai cấp khác nhau, thì không thể nói đến “dân chủ thuần túy” được, mà chỉ có thể nói đến dân chủ có tính giai cấp (xin nói thêm rằng “dân chủ thuần túy” không những là một công thức của kẻ ngu dốt không hiểu một tý gì về đấu tranh giai cấp, về bản chất của nhà nước, mà còn là một công thức hết sức rỗng tuếch nữa”(24).

Vậy là, không chỉ trước đây mà ngay hiện nay, không ít kẻ lợi dụng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu để phản bác những quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ, dân chủ XHCN gấp triệu lần hơn dân chủ tư sản. Và mỗi lần như thế, tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ càng được khẳng định giá trị bền vững, bất diệt và ngày càng tỏa sáng, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân loại vì tự do, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.44-45.

(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, Sđd, t.1, tr.350, 350.

(4), (11) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 626, 469.

(5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.32, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.515-516.

(6), (16) Sđd, t.38 tr.414, 114-115.

(7) Sđd, t.39, tr.515-517.

(8), (9) V.I.Lênin:Nhà nước và cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.176, 61.

(10),(20), (22), (24)  V. I. Lênin:Toàn tập, Sđd, t.37, tr.313, 312-313, 313, 313.

(12) Trong lý luận về cách mạng vô sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò của bạo lực cách mạng, song Lênin đã khẳng định con đường giành chính quyền bằng hòa bình rất hiếm nhưng vô cùng quý giá - phương thức tốt nhất trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là cách mạng vô sản.

(13)V.I.Lênin:Toàn tập, Sđd,t.27, tr.78-79.

(14) C.Mác và Ph.Ăng ghen:Toàn tập, Sđd, t.17, tr.449.

(15) V.I.Lênin:Toàn tập, Sđd, t.35, tr.126-127.

(17) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.791.

(18) V.I.Lênin:Toàn tập, Sđd, t.31, tr.336-337.

(19), (21), (23) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.723, 314, 312.

 

GS,TS Dương Xuân Ngọc

ThS Dương Ngọc Anh

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền