Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy trong các nền chính trị
Thứ năm, 25 Tháng 4 2019 15:17
3239 Lượt xem

Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy trong các nền chính trị

(LLCT) - Chủ nghĩa dân tộc là một trào lưu thực tiễn ra đời khi dân tộc xuất hiện mà không có một giá đỡ với tư cách là một hệ thống lý thuyết. Còn chủ nghĩa dân túy, một lý thuyết chính trị được nảy sinh và phát triển mạnh vào những thập niên 70, 80 ở nước Nga và Mỹ. Trên thực tế, chủ nghĩa dân túy thời kỳ đầu đã có mối liên hệ với chủ nghĩa dân tộc để cố gắng tìm lời giải cho sự phát triển của dân tộc. Trong bối cảnh mới của xã hội hiện đại, một lần nữa, chủ nghĩa dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa dân túy mới với nhiều biểu hiện mới và đó là một lý thuyết chính trị mới. Sự kết hợp đó suy cho cùng cũng nhằm tìm kiếm lời giải cho sự phát triển của dân tộc trong một thế giới đầy biến đổi. Sự kết hợp này mang đến nhiều hệ lụy cho quốc gia, dân tộc và cho toàn nhân loại, nguy cơ làm tăng sự xung đột giữa các dân tộc, hình thành nhiều hành động cực đoan.

Cho đến hiện nay, quan niệm về mối liên hệ giữa chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Bỏ qua những khác biệt trong các quan niệm rất đa dạng hiện nay, có thể hiểu, chủ nghĩa dân tộc là một trào lưu thực tiễn hướng đến mục tiêu cuối cùng là đề cao các giá trị và lợi ích của dân tộc. Nó được hình thành khi dân tộc ra đời và ở châu Âu nó gắn liền với sự ra đời của dân tộc tư sản.

Chủ nghĩa dân túy ra đời vào những năm bảy mươi của thế kỷ XIX ở Nga và Mỹ.

Vấn đề đặt ra ở đây là, tại sao chủ nghĩa dân túy lại khởi đầu ở Nga và Mỹ và tại sao chủ nghĩa dân túy cổ điển lại dựa vào giai cấp nông dân, xem giai cấp đó là lực lượng chủ yếu để thúc đẩy tiến bộ xã hội?

Như lịch sử đã chứng tỏ sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được công bố (2-1848), chủ nghĩa cộng sản, từ một bóng ma đã trở thành một thế lực hiện thực. Chủ nghĩa cộng sản đã từng bước lan tỏa ảnh hưởng của mình với mục tiêu xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn mà ở đó ách áp bức, bóc lột giai cấp bị thủ tiêu, con người được phát triển tự do, toàn diện. Chủ nghĩa cộng sản xác định, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản, tiến hành cuộc liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và các lực lượng tiến bộ để từng bước “đoạt lấy dân chủ”, “trở thành dân tộc” để tiến hành một cuộc cải tạo vĩ đại nhất trong lịch sử, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Khi nghiên cứu lịch sử, những người sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, lịch sử nhân loại không vận hành một cách ngẫu nhiên, vô hướng mà có “trật tự”, tuân theo những quy luật vốn có của lịch sử. Lịch sử đó cũng không phải vận động theo một chu trình khép kín của các lực lượng tinh thần theo kiểu Hêghen mà là một quá trình mở vô tận, vĩnh viễn với động lực chủ yếu nhất là thực tiễn. Ngoài ra, khi phân tích địa vị của các giai cấp, những người sáng lập chủ nghĩa Mác còn thấy rằng, trong các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, các giai cấp khác thì ngày càng suy tàn. Chỉ có giai cấp công nhân là ngày càng lớn mạnh, là đại biểu tiên tiến nhất của nhân loại. Giai cấp đó có đầy đủ địa vị kinh tế, xã hội để có thể đảm đương được sứ mệnh của mình.

Sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được công bố rộng rãi, chủ nghĩa Mác được lan truyền nhanh chóng ra cả châu Âu, trong đó có nước Nga. Nhiều nhà mác xít đã có công quảng bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga và đã trở thành một lý thuyết chính trị có ảnh hưởng to lớn trong đời sống của nước Nga.

Chủ nghĩa Mác được du nhập vào nước Nga trong bối cảnh nước Nga đang loay hoay đi tìm một lối thoát để vượt qua tình cảnh một nước lạc hậu về kinh tế và chuyên chế về chính trị dưới sự thống trị của Nga hoàng nhằm theo kịp các nước châu Âu phát triển khác. Lẽ đương nhiên, sẽ xuất hiện những va đập với các xu hướng tư tưởng khác hiện đang tồn tại. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa dân túy xuất hiện.

Như vậy, có thể nói, chủ nghĩa dân túy Nga ra đời, thoạt nhìn như là một lý thuyết chính trị cho con đường phát triển của nước Nga khác với lý thuyết của Mác. Tuy nhiên, phân tích sâu hơn vào thực chất, vấn đề không đơn giản như vậy.

Kể từ sau khi Quốc tế I được thành lập vào năm 1864 nhằm tập hợp phong trào công nhân trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa tư bản, bản thân nội bộ Quốc tế Cộng sản đã có sự phân hóa và sự phân hóa đó càng ngày càng lộ rõ. Trước tình hình ấy, C.Mác, Ph.Ăngghen và những người cách mạng chân chính đã tuyên bố giải thể Quốc tế Cộng sản và tổ chức này chấm dứt sứ mệnh của mình vào năm 1876.

Kế theo đó, do nhu cầu phát triển của phong trào công nhân, vào năm 1889, Quốc tế II được thành lập. Cũng như Quốc tế I, sự phân hóa cũng diễn ra trong lòng Quốc tế II, nhất là sau khi Ph.Ăngghen qua đời. Các đại biểu nổi tiếng như Bestanh, Causky đã không tán thành quan điểm với C.Mác, Ph.Ăngghen trên nhiều vấn đề, nhất là vấn đề nhà nước, vấn đề phương pháp cách mạng...

Trước thực tế đó, những nhà dân chủ cách mạng Nga cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Bestanh, Causky và chủ nghĩa cơ hội cũng được du nhập vào nước Nga. Trên cơ tầng đó, chủ nghĩa dân túy Nga ra đời. Chủ nghĩa đó không thừa nhận con đường đấu tranh cách mạng để lật đổ chủ nghĩa tư bản, không thừa nhận giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong của giai cấp là đảng cộng sản. Theo họ, để khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản không nên sử dụng bạo lực cách mạng mà phải tiến hành chủ yếu bằng con đường hòa bình và dựa vào giai cấp nông dân, công xã nông thôn hoặc tầng lớp trí thức.

Tại sao chủ nghĩa dân túy Nga chủ trương dựa vào nông dân với hình thức kinh tế chủ yếu và phổ biến là công xã nông thôn và phủ nhận phương pháp cách mạng bạo lực? Lý do bởi, theo họ, nông dân là lực lượng đông đảo nhất của xã hội Nga. Giai cấp đó cũng là giai cấp đau khổ nhất trong xã hội.

Lý thuyết dân túy đã bị V.I.Lênin kịch liệt phê phán, bởi, lý thuyết đó không thể mang lại một thay đổi thực tế khi chủ trương dựa vào một giai cấp không đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội là giai cấp nông nhân. Nó cũng sai lầm khi cho rằng giải quyết xung đột giai cấp thông qua hoạt động nghị trường, thông qua các biện pháp hòa bình để chủ nghĩa tư bản tự chuyển hóa, tự thay đổi. Vấn đề này không bao giờ xảy ra trên thực tế bởi trong lịch sử chưa có giai cấp nào tự nguyện dâng hiến chính quyền của mình cho giai cấp khác.

Ở đây, tính chất dân túy được thể hiện rõ ràng bởi các thủ thuật như là một dấu hiệu điển hình nhất của chủ nghĩa, đó là mị dân bởi sự tán dương giai cấp nông dân một cách vô lối nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ một cách giả tạo, thiếu cơ sở thực tế. Thủ thuật đó cũng tạo nên một biểu hiện điển hình không chỉ ở chủ nghĩa dân túy cổ điển mà còn có mặt ở mọi loại dân túy trong lịch sử.

Ở nước Mỹ, vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX, chủ nghĩa dân túy cũng xuất hiện. Mặc dù không gian lịch sử của nước Mỹ thời điểm đó không hoàn toàn giống hoàn cảnh của nước Nga song có những điểm chung rất cơ bản.

Trước hết, chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ nhiều khuyết tật cố hữu mà điển hình nhất là nạn áp bức người lao động thậm tệ trong khi điều kiện sống, điều kiện làm việc không được cải thiện. Trong cơn lốc tư bản chủ nghĩa, nhiều bộ phận dân cư, nhất là người nông dân, là đối tượng thiệt thòi nhất. Một bộ phận trở thành công nhân bị áp bức, bóc lột thậm tệ, bộ phận khác cũng đang điêu đứng trước làn sóng tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, nhiều đảng phái chính trị, nhiều chính trị gia đã có sự quan tâm đến lực lượng này. Sự quan tâm đó không phải hướng đích xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, cũng không nhằm cứu người nông dân ra khỏi guồng máy chủ nghĩa tư bản, thay đổi thân phận và cuộc sống của họ theo hướng tốt đẹp hơn. Sự quan tâm đó mục đích cuối cùng là để tranh thủ sự ủng hộ, tranh thủ phiếu bầu của cử tri qua các cuộc bầu cử để rồi họ sẽ vứt bỏ những lời hứa hẹn tốt đẹp ngay sau khi trở thành người cầm quyền. Vì vậy, về bản chất, chủ nghĩa dân túy Mỹ theo khuynh hướng tả hay hữu cũng có chung biểu hiện là sự lừa mị những người bình dân với những thủ thuật ngôn từ được chăm chút cẩn thận, và mang đầy màu sắc của chủ nghĩa vụ lợi.

Qua cao trào ở cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa dân túy bước vào giai đoạn trầm lắng cho dù nó không bao giờ bị biến mất khỏi cuộc sống. Sự thật này bắt nguồn sâu xa từ cuộc sống trần thế của con người. Cuộc sống đó bao gồm những cá nhân với nhiều nhu cầu rất đa dạng và ngày càng cao. Vì vậy, đôi khi, người ta cảm thấy hài lòng bởi một lời hứa hẹn, một sự an ủi nào đó dù chỉ trong ngắn hạn, hay rất khó thực hiện trong thực tế. Đó là mảnh đất màu mỡ để chủ nghĩa dân túy hình thành, bám rễ. Cũng trên cơ sở đó, các đảng phái chính trị, các chính trị gia dân túy khai thác để phục vụ mục tiêu của mình.

Tuy nhiên, vào những năm đầu của thế kỷ XXI, người ta lại chứng kiến chủ nghĩa dân túy trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt sau những tác động nhiều mặt của toàn cầu hóa, sau những cuộc di cư khổng lồ của cư dân các khu vực vào châu Âu và Mỹ, sau hiện tượng Brexit và thắng lợi của Donald Trump. Chủ nghĩa dân túy hiện đại, nhìn chung mang bản chất của chủ nghĩa dân túy cổ điển song có nhiều dấu hiệu mới. Cơ sở xã hội của nó là những người bình dân bị tổn thương trong quá trình phát triển, nhất là quá trình toàn cầu hóa với sự cạnh tranh khốc liệt về kinh tế cũng như các vấn nạn khác mà xã hội hiện đại mang lại. Đó là quá trình xuất hiện nạn khủng bố quốc tế dưới nhiều màu sắc, của sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, sự lên ngôi của các lợi ích dân tộc cực đoan...

Khác với chủ nghĩa dân túy cổ điển, chủ nghĩa dân túy hiện đại phát triển rầm rộ ở mọi châu lục, kể cả khu vực châu Á vốn trước đây khá yên bình. Thêm nữa, nó xuất hiện trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc lên ngôi và vì vậy, có thể xem là hình thức được ngụy trang bằng chủ nghĩa dân tộc.

Ở khu vực châu Á, các chính trị gia như Thủ tướng Abe của Nhật Bản, Tổng thống Dutete của Philippin, Thủ tướng Modi của Ấn Độ hay Tổng thống Edugan của Thổ Nhĩ Kỳ... cũng bày tỏ lập trường có màu sắc dân tộc với mục tiêu chấn hưng quốc gia, bảo vệ lợi ích dân tộc. Abe của Nhật Bản mơ ước về một thời Minh Trị thiên hoàng; Modi cố gắng tích hợp đạo Hindu với tinh thần thời đại; Edugan cố gắng khôi phục đế chế Ôttôman; Putin trong nỗ lực chấn hưng dân tộc nhằm khôi phục vị thế siêu cường mà nước Nga Đại đế đã có hay như Tập Cận Bình đang nỗ lực khôi phục một Trung Hoa vĩ đại.

Rõ ràng, việc các chính trị gia có thành công với giấc mộng của mình hay không và liệu giấc mơ của họ có đem lại một sự thay đổi cơ bản trong dài hạn hay chỉ là thủ thuật tâm lý vẫn phải chờ thêm chứng liệu của lịch sử, nhưng đều có thể khẳng định, điểm chung của các chính trị gia là đã cố gắng sử dụng lá bài dân tộc dưới một hình thức mới mà thời đại tạo ra. Trong bối cảnh mới, khi quan hệ quốc tế đã có nhiều thay đổi đáng kể, lợi ích quốc gia, dân tộc được xem là tối thượng. Mục tiêu này là cơ sở để định vị cách ứng xử của các chính trị gia và cũng là căn cứ để người dân soi chiếu, đánh giá, thẩm định phẩm chất và năng lực của nhà chính trị cầm quyền.

Sở dĩ mục tiêu dân tộc được lựa chọn là tối thượng có 2 nguyên nhân cơ bản. Một là, suy cho cùng, mọi sự phát triển đều bắt đầu diễn ra trên cơ sở dân tộc, trên mảnh đất dân tộc và phục vụ trước hết cho lợi ích dân tộc. Vì vậy, sức mạnh của các chính trị gia và cũng là thước đo cho năng lực của họ phải bắt đầu từ dân tộc. Hai là, do những tác động rất đa chiều từ quá trình toàn cầu hóa. Riêng về toàn cầu hóa, có thể nhận thấy, quá trình đó thoạt đầu là do những đòi hỏi của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đó không thể không diễn ra bởi lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giới hạn mà ở đó, nếu không mở rộng, liên kết thị trường thông qua quá trình từng bước xóa bỏ hàng rào thuế quan để thiết lập một thị trường ngày càng rộng lớn và thống nhất thì chủ nghĩa tư bản không thể tiếp tục phát triển. Chính vì vậy, tiên phong trong quá trình toàn cầu hóa không ai khác ngoài các tập đoàn tư bản khổng lồ.

Quá trình toàn cầu hóa đã làm thay đổi cơ bản các dự liệu của những người khai đường, mở lối, tiên phong. Nó đem lại một sự dịch chuyển ghê gớm về dòng vốn, về sự phân công lao động và dĩ nhiên cả về lợi ích của các chủ thể xã hội cả ở tầm mức cá nhân và cả tầm mức quốc gia, dân tộc. Sự thay đổi đó đã làm cho một số cộng đồng dân cư, một số quốc gia, dân tộc cảm thấy bất lợi, thậm chí bị tụt lại phía sau, cảm thấy bị tổn thương, nhất là ở các quốc gia phát triển nhất.

Trên thực tế, ngoài xu hướng ủng hộ toàn cầu hóa đã xuất hiện xu hướng chống toàn cầu hóa. Xu hướng này diễn ra khá rầm rộ trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại và dĩ nhiên cùng với nó là thái độ chính trị tương ứng. Đó là thái độ ủng hộ bảo hộ thương mại, bài người nhập cư hay thái độ hành xử quốc tế chỉ lấy nguyên tắc lợi ích dân tộc là chuẩn mực cao nhất, hình thành một động thái mới rất nguy hiểm là chủ nghĩa đơn phương. Đó cũng là mảnh đất màu mỡ để hình thành và bùng phát nhiều biểu hiện cực đoan từ tôn giáo cực đoan đến dân tộc cực đoan và nạn khủng bố quốc tế. Đó là thái độ thờ ơ trước các vấn nạn toàn cầu như nghèo đói, chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí hậu..., hành động một cách đơn phương như Tổng thống Mỹ Donald Trump đã từng thể hiện.

Vấn đề cần phải bàn thêm ở đây là, khi cho rằng, chủ nghĩa dân túy chỉ quan tâm đến các vấn đề ngắn hạn hay chỉ là những thủ thuật ngôn từ mà nội dung rất ít hay thuần túy chỉ là những tuyên bố suông? Trên thực tế, vấn đề này cũng khó thuyết phục bởi trường hợp Donald Trump là một ví dụ. Theo đó, trong tuyên bố tranh cử, những lời hứa như “nước Mỹ trên hết” hay các cam kết rút khỏi hiệp định về chống biến đổi khí hậu, hiệp định hạt nhân về Iran... vẫn từng bước được thực hiện.

Trước thực tế đó, dĩ nhiên, thái độ khách quan là cần phải chờ đợi thêm các dữ liệu được cung cấp từ cuộc sống, song về phương diện logic, có thể khẳng định rằng, một khi chủ nghĩa dân túy mới được bổ sung thêm hình thức là chủ nghĩa dân tộc thì hệ lụy của nó là vô cùng to lớn.

Về phương diện xã hội, dường như nó tạo ra và cổ súy một lối sống, một cách ứng xử ở đó, nội dung rất nghèo nàn nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó trong ngắn hạn. Về phương diện chính trị là sự lên ngôi của nghệ thuật ngôn từ nhằm làm hài lòng về mặt tâm lý của cử tri, nhất là nhóm cử tri thấy mình được quan tâm, được đề cao, được chia sẻ bởi những tổn thương trong cuộc sống mà họ đang phải đối mặt. Tai hại nhất, khi chủ nghĩa dân túy núp dưới bộ áo chủ nghĩa dân tộc sẽ góp phần gia tăng chủ nghĩa dân tộc cực đoan dưới các dạng thức chủ nghĩa nước lớn, chủ nghĩa cực quyền, cổ súy các hành động đơn phương, đe dọa sự tồn vong của các định chế quốc tế. Điều này đã xảy ra trong thực tế qua hành động của nhiều chính trị gia mà Donald Trump là một ví dụ điển hình. Ở đó, khi vừa đắc cử, vị tổng thống này ngay lập tức tuyên bố rút khỏi hiệp định về biến đổi khí hậu, hiệp định hạt nhân về Iran, hiệp định về TPP, đàm phán lại NAPTA và nhiều định chế quốc tế khác.

Có thể nói rằng, chủ nghĩa dân túy kết hợp với chủ nghĩa dân tộc là lý thuyết chính trị mới của nhân loại. Lý thuyết ấy cơ hồ đang thúc đẩy nhân loại đi về một lối rẽ khác với việc làm rạn nứt các quan hệ quốc tế đã được xác lập, mở đường cho các hành động đơn phương mà trong đó nhiều hành động không chỉ gây nguy hại cho quốc gia, dân tộc mà còn cho cả nhân loại.

PGS, TS Hồ Trọng Hoài

 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền