Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Hoạch định chính sách công trong nền kinh tế thị trường
Thứ hai, 22 Tháng 6 2020 15:03
9234 Lượt xem

Hoạch định chính sách công trong nền kinh tế thị trường

(LLCT) - Trên thế giới ngày nay, kinh tế thị trường là mô hình chủ đạo ở hầu hết các nền kinh tế. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường tác động đến hoạch định chính sách công thông qua sự hoạt động và phát huy tác động của các quy luật kinh tế khách quan và các yếu tố đặc trưng của nó. Do vậy, hoạch định chính sách vĩ mô - chức năng quan trọng nhất của các nhà nước cũng cần phù hợp với các yêu cầu của kinh tế thị trường. Hoạch định chính sách công tốt giúp cho quá trình thực thi thuận lợi, chính sách dễ dàng đi vào cuộc sống và hạn chế việc phải điều chỉnh chính sách.

Từ khóa: chính sách công, hoạch định chính sách công, kinh tế thị trường.

Chính sách công là định hướng, giải pháp của nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Hoạch định chính sách là giai đoạn đầu tiên của quy trình chính sách mà kết quả của quá trình này là một chính sách ra đời với cấu trúc bao gồm mục tiêu, định hướng, điều kiện, giải pháp và lộ trình thực hiện. Với vai trò, vị thế trong đời sống xã hội của nhà nước, chính sách công theo đuổi lợi ích chung và có tác động to lớn đến cộng đồng, quốc gia. Đối với quản trị nhà nước, chính sách công là một công cụ để nhà nước tác động vào nền kinh tế - xã hội, cộng đồng dân cư; định hướng, điều chỉnh các hoạt động này nhằm đạt được mục tiêu của nhà nước. Chính sách công thể hiện rõ quan điểm, định hướng của nhà nước (khuyến khích, hỗ trợ hay cấm đoán, cản trở) các hành vi nào, nhằm đạt được cái gì (mục tiêu chính sách) và làm như nào (giải pháp chính sách). Đối với đời sống kinh tế xã hội, cộng đồng, chính sách công tốt tạo ra những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, con người.

Tuy nhiên, hoạch định chính sách công bao giờ cũng gắn với và chịu sự tác động của môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc tế... Trong nền kinh tế thị trường, các chính sách công được hoạch định để khắc phục những thất bại của thị trường nhằm bảo đảm công bằng và hiệu quả, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc, vùng miền... Mỗi chính sách công đưa ra để giải quyết một vấn đề cụ thể đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của thực tiễn.

1. Các yếu tố của kinh tế thị trường tác động đến hoạch định chính sách công

Về cơ bản, kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quan hệ của thị trường, đó là quan hệ mua - bán dựa trên cơ sở ngang giá trị. Khi kinh tế thị trường phát triển, thì vai trò quản lý của nhà nước cần chuyển biến để thích ứng với nền kinh tế đó. Từ đó, hoạch định chính sách vĩ mô - chức năng quan trọng nhất của các nhà nước cũng cần thay đổi một cách tương ứng... Một cách chung nhất, kinh tế thị trường tác động đến hoạch định chính sách công thông qua các yếu tố cơ bản sau đây:

Nhiều chủ thể sở hữu

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm cho sự  xuất hiện, tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường, đó là chế độ đa sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó hình thức sở hữu tư nhân được coi là thành tố tất yếu của kinh tế thị trường. Một nền kinh tế thị trường phát triển đều phải dựa trên sự thừa nhận quyền tự do sở hữu về sức lao động, vốn, công cụ lao động, máy móc, nhà xưởng, và thành quả của lao động, đầu tư, kinh doanh... Như vậy, đa sở hữu là nền tảng cốt lõi của kinh tế thị trường song không phải bất kỳ nền kinh tế thị trường nào cũng có cấu trúc sở hữu giống nhau. Ở Việt Nam, “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” (Điều 51, Hiến pháp 2013). Chế độ đa sở hữu và cấu trúc các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường tác động không nhỏ đến hoạch định chính sách công. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách của nhà nước, chẳng hạn chính sách phát triển doanh nghiệp hay chính sách đầu tư, chính sách về đất đai, chính sách vay vốn... phải bảo đảm sự phát triển bình đẳng giữa các hình thức sở hữu trên phương diện kinh tế; không phân biệt đối xử giữa các hình thức sở hữu.

Các quy luật của kinh tế thị trường

Quy luật kinh tế là những sự phụ thuộc lẫn nhau khách quan, ổn định, là mối liên hệ nhân quả trong các quá trình và hiện tượng kinh tế. Quy luật kinh tế là quy luật phát triển của các quan hệ sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Mặc dù quy luật kinh tế được con người nhận biết và đặt tên, song hoàn toàn mang tính khách quan và không phụ thuộc chủ quan vào con người. Con người không thể tạo ra quy luật nếu điều kiện hình thành quy luật chưa có, ngược lại khi điều kiện xuất hiện của quy luật vẫn còn thì con người không thể xóa bỏ quy luật. Các quy luật kinh tế tồn tại đan xen vào nhau tạo thành một hệ thống thống nhất, chi phối và chế ngự lẫn nhau. Cũng như mọi quy luật, quy luật thị trường hình thành khách quan, và không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không, nó đem lại lợi ích hay bất lợi. Muốn vận dụng có hiệu quả các quy luật con người phải nhận biết được nó, đồng thời cần tổ chức các điều kiện chủ quan của hệ thống để cho hệ thống xuất hiện các điều kiện khách quan mà nhờ đó quy luật phát sinh tác dụng. Trong nền kinh tế thị trường, để quản lý nhà nước về kinh tế có hiệu quả, nhà nước cần phải nhận biết được các quy luật của thị trường, tạo ra những ứng xử phù hợp để thúc đẩy phát triển là cách tôn trọng các quy luật thị trường.

Một nền kinh tế thị trường tồn tại, phát triển và vận hành dựa trên những quy luật vốn có của nó. Điều đó yêu cầu các thành viên trong nền kinh tế, từ người sản xuất, người tiêu dùng đến Chính phủ đều phải tôn trọng và tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Trước hết và đặc biệt quan trọng đó là các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... Chính sách công đúng, hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc nó có phù hợp với các quy luật khách quan hay không. Vì vậy, hoạch định chính sách công trong nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc nhận thức đúng, đầy đủ và vận dụng linh hoạt, khôn khéo những tác động của các quy luật khách quan.

Hệ thống các thị trường phụ thuộc và tác động lẫn nhau trong nền kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường, luôn diễn ra sự tương tác giữa các loại hình thị trường: thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường trong nước, thị trường thế giới...

Một trong những yêu cầu quan trọng của kinh tế thị trường đó là sự phát triển đồng bộ và liên kết chặt chẽ giữa các loại thị trường. Đồng bộ theo nghĩa chung là sự ăn khớp, sắp xếp và hoạt động theo một tương quan tỷ lệ nhất định giữa tất cả các bộ phận hoặc các khâu, tạo nên hoạt động nhịp nhàng của chỉnh thể. Sự phát triển đồng bộ các loại thị trường đòi hỏi cả về cấp độ hay mức độ phát triển giữa các loại thị trường này. Sự phát triển đồng bộ các loại thị trường còn là sự cân đối về mặt lượng và chất, về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường “đầu vào”, “đầu ra” của nền kinh tế. Sự phát triển đồng bộ các loại thị trường chính là yêu cầu bắt buộc để xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh.

Trong quá trình hoạch định chính sách công, nhà nước xây dựng những chính sách nhằm tạo lập sự đồng bộ, ăn khớp và hợp lực các hệ thống thị trường. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn chưa hình thành đầy đủ các thể chế cần thiết để vận hành thông suốt, minh bạch, hiệu quả các loại thị trường; do đó, một số loại thị trường vẫn còn chậm hình thành và phát triển. Để thúc đẩy các thị trường phát triển đồng bộ và gắn kết chặt chẽ, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần ban hành các cơ chế chính sách tạo nền tảng cho các loại thị trường phát triển mạnh và đồng bộ.

Thị trường đặt ra các yêu cầu phân bổ nguồn lực xã hội

Trong nền kinh tế, các nguồn lực cho sản xuất gồm bốn yếu tố cơ bản: tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và khoa học công nghệ. Trong mỗi giai đoạn và trình độ phát triển của nền kinh tế, sự đóng góp cũng như vai trò của từng yếu tố này đều có sự thay đổi. Trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn, tài nguyên đất đai và khoáng sản được xem là giới hạn của tăng trưởng kinh tế như quan niệm của các nhà kinh tế cổ điển. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường ở giai đoạn thấp, 3 yếu tố truyền thống là tài nguyên, lao động và vốn chính là nguồn lực căn bản, chủ yếu giúp cho các nước chậm và đang phát triển thúc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại và phát triển, yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng của mọi quốc gia chính là khoa học và công nghệ. Khác với 3 nguồn lực truyền thống trên, khoa học và công nghệ là yếu tố không bị giới hạn như đất đai hay tài nguyên, không bị hạn chế về số lượng và chất lượng như vốn hay lao động, là yếu tố có thể giúp các nền kinh tế đang phát triển thoát khỏi bẫy “thu nhập trung bình” và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu.

Như vậy, trong kinh tế thị trường, không phải nhà nước mà chính là thị trường đóng vai trò phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Nhà nước đóng vai trò xây dựng các chính sách để thực hiện bình đẳng, công khai, minh bạch trong tiếp cận các nguồn lực; đồng thời hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn đạt hiệu quả cao, có tác động lan tỏa.

2. Các yêu cầu về hoạch định chính sách công trong điều kiện kinh tế thị trường

Tư duy chiến lược trong hoạch định chính sách công

 Thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước cho thấy, tư duy chiến lược được xếp hạng là một trong những năng lực lãnh đạo quan trọng nhất. Đối với nhà lãnh đạo quản lý cấp cao trong bộ máy nhà nước, tư duy chiến lược là phương thức tư duy không thể thiếu trong hoạch định chính sách công.

Tư duy chiến lược trong hoạch định chính sách là cách thức, quy trình và năng lực tư duy để đưa ra một chính sách có tính chiến lược, phát huy tác dụng trong một giai đoạn lâu dài. Với các đặc trưng của tư duy chiến lược là tư duy rộng, tư duy sâu, tư duy dài hạn, tư duy hệ thống và phản biện, cách tư duy chiến lược sẽ giúp nhà hoạch định chính sách có thể đề xuất ra một chính sách có cơ sở khoa học, dựa trên bằng chứng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn không chỉ trước mắt mà trong một giai đoạn dài. Tư duy chiến lược đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải có tầm nhìn bao quát, thấy được những gì đang diễn ra và xu hướng biến đổi của môi trường xung quanh tác động đến vấn đề chính sách trong thời gian tới, hệ quả của vấn đề chính sách trong môi trường thay đổi. Tư duy chiến lược giúp nhà hoạch định chính sách phân tích vấn đề một cách sâu sắc, xác định đầy đủ các nguyên nhân gây ra vấn đề, tập trung vào những nguyên nhân gốc rễ. Tư duy phản biện giúp nhà hoạch định chính sách luôn đặt ra câu hỏi đối với những gì vốn được coi là hiển nhiên, thấy được các khía cạnh tiềm ẩn của vấn đề. Từ những phân tích trên, nhà hoạch định chính sách có thể định hình mục tiêu của chính sách đáp ứng các biến đổi của môi trường trong tương lai. Bằng việc xem xét một cách hệ thống và có tính phản biện, tư duy chiến lược giúp nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra các phương án và giải pháp giải quyết vấn đề một cách hợp lý nhất. Với cách tư duy hệ thống, vấn đề được xem xét giải quyết trong mối tương quan với các vấn đề có liên quan, bảo đảm tính tương thích giữa chính sách đang được soạn thảo với các chính sách khác đang vận hành trong thực tế.

Tư duy hiệu quả toàn diện trong hoạch định chính sách công

Chính sách công là công cụ của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu của nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội. Việc đánh giá hiệu quả của chính sách sẽ không đơn thuần là hiệu quả về mặt kinh tế hay xã hội một cách tách biệt, mà cần xem xét một cách toàn diện trên các mặt.

Mỗi chính sách công đều tạo ra các tác động chính sách. Các tác động này có thể là trực tiếp đến nhóm đối tượng chính sách, song bên cạnh đó lại tạo ra những tác động đến các bên có liên quan, thậm chí đến những nhóm bên ngoài, bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực. Vì vậy, trong hoạch định chính sách cần xem xét đánh giá đầy đủ các tác động mà chính sách có thể tạo ra, từ đó có thể dự báo được hiệu quả của chính sách một cách toàn diện. Chính sách kinh tế hướng đến thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo cơ hội cho đầu tư phát triển, song rất có thể chính sách đó lại có những tác động không tốt đến môi trường, từ đó lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng về xã hội và sự phát triển kinh tế. Chính sách kinh tế cũng có thể gây ra những tác động không nhỏ đến xã hội, chẳng hạn việc phát triển mạnh các khu công nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng dân số, làm gia tăng yêu cầu đối với chính quyền về các dịch vụ công như trường học, bệnh viện, hoặc có thể gây ra những tệ nạn xã hội không mong muốn. Một chính sách nhằm bảo vệ môi trường cũng có thể gây ra những cản trở cho việc đầu tư phát triển kinh tế.

Vì vậy, việc tính toán hiệu quả của một chính sách đòi hỏi phải tư duy toàn diện về các tác động của chính sách đến các lĩnh vực, tính đến những điều kiện hay rủi ro có thể xảy ra, từ đó đề xuất các giải pháp chính sách phù hợp.

Bảo đảm thông tin trong quá trình hoạch định chính sách công

Thu thập thông tin liên quan đến vấn đề chính sách là điều kiện quan trọng để có thể hoạch định chính sách có chất lượng. Trong quá trình hoạch định chính sách, việc thu thập được thông tin đầy đủ đến mức nào sẽ có vai trò quyết định trong phân tích chính sách, cụ thể là đến việc xác định nguyên nhân, hệ quả, mục tiêu, các phương án và giải pháp chính sách. Các thông tin được thu thập và phân tích một cách khoa học sẽ là các bằng chứng quan trọng trong hoạch định chính sách.

Khi các thông tin về vấn đề chính sách đã được thu thập đầy đủ và xử lý một cách hiệu quả thì việc xác định nguyên nhân của vấn đề và đề ra phương án hợp lý sẽ trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, nhiều vấn đề chính sách không thể có đủ thông tin để dự báo mà chủ yếu dựa vào các suy đoán (đặc biệt là các vấn đề liên quan tới các chính sách như an ninh, quốc phòng, ngoại giao,... tức là những chính sách nằm trong nghị trình các vấn đề an ninh quốc gia của nhà nước). Việc không có đầy đủ thông tin nhiều khi không cho phép người ra quyết định nhìn nhận một cách toàn diện về phương án chính sách, đôi khi có những nội dung quan trọng nhưng vì thiếu thông tin sẽ bị bỏ qua. Trên thực tế, các thông tin thu được không những phụ thuộc vào khả năng phản ánh thông tin của các bên chịu ảnh hưởng của vấn đề cũng như các bên quan tâm đến vấn đề đó, mà còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực cũng như ý thức trách nhiệm của người thu thập thông tin. Đôi khi, do giới hạn về thời gian, do không có đủ kinh phí để khảo sát một cách kỹ lưỡng, hoặc vì các lý do khách quan như vấn đề thuộc về các lĩnh vực bí mật... các thông tin cần thiết sẽ chỉ được thu thập được ở một mức độ nhất định. Khi đó việc ra quyết định chính sách sẽ chỉ có thể là tối ưu với việc phân tích những thông tin có được.

Vì vậy, việc thu thập được nhiều nhất ở mức có thể các thông tin liên quan đến vấn đề chính sách là điều kiện cần thiết để hoạch định chính sách có hiệu quả.

Dân chủ và tăng cường sự tham gia của các chủ thể xã hội, đặc biệt là của người dân trong quá trình hoạch định chính sách công

Quá trình xác định vấn đề và soạn thảo chính sách là một quá trình dân chủ, vì nó huy động sự tham gia của nhiều người. Sự tham gia đó cung cấp các thông tin cũng như các phản hồi phong phú để người ra quyết định chính sách có những cơ sở để ra quyết định đúng đắn. Sự tham gia của nhiều người vào quy trình hoạch định chính sách cũng huy động được trí tuệ và kinh nghiệm của tập thể để hoạch định ra một chính sách tốt. Trong giai đoạn đánh giá các phương án chính sách, sự tham gia của những người có chuyên môn và sự tham gia ý kiến của cộng đồng đối với phương án chính sách cũng là rất quan trọng để tạo ra những luận cứ quan trọng về chất lượng chính sách. Sự tham gia của các chủ thể khác nhau vào hoạch định chính sách sẽ góp phần tạo ra các sản phẩm chính sách có được sự đồng thuận của đông đảo các tầng lớp xã hội, đem lại hiệu quả khi thực thi chính sách.

Trong quá trình lựa chọn phương án chính sách, cơ quan có thẩm quyền có thể tổ chức lấy ý kiến của các bên liên quan về phương án hay dự thảo chính sách. Việc lấy ý kiến của các bên liên quan là một khâu quan trọng trong quá trình dân chủ hoá đối với việc ban hành chính sách công. Ý kiến đóng góp của các bên liên quan cho phép chủ thể ra quyết định chính sách có thể nhìn nhận toàn diện hơn về những mặt được và đặc biệt là những điểm còn chưa hoàn chỉnh trong dự thảo chính sách. Trong nhiều trường hợp, sự ủng hộ của người dân và các bên liên quan sẽ có tác động đáng kể đến người ra quyết định, tạo ra sự vững tâm hơn khi họ ký vào dự thảo chính sách đạt được sự đồng thuận cao. Ngược lại, người ra quyết định thường không dám mạo hiểm đưa ra một quyết định mà bị nhiều người phản đối mạnh mẽ.

Trên thực tế, một dự thảo chính sách khi được đưa ra có thể nhận được nhiều ý kiến tranh luận, bao gồm cả những ý kiến đồng thuận, những đóng góp bổ sung làm cho nội dung hoàn thiện hơn, song cũng sẽ có những ý kiến trái chiều, đặc biệt khi vấn đề chính sách liên quan đến những lợi ích khác biệt nhau. Trong trường hợp này, nhà hoạch định chính sách cần có lập trường rõ ràng, quán triệt các nguyên tắc cơ bản trong lựa chọn chính sách để nhìn nhận và tiếp thu các ý kiến đóng góp. Song điều đó cũng không có nghĩa là người hoạch định chính sách gạt ra ngoài các ý kiến trái chiều, ngược lại, cần quan tâm xem xét, phân tích và thảo luận trong nhóm về những nhân tố hợp lý cần tiếp thu trong các ý kiến trái chiều này. Ý kiến của các bên liên quan đóng góp cho dự thảo chính sách cần được xem xét kỹ, phân tích và tiếp thu một cách nghiêm túc. Kết quả lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến cần được thông báo công khai cho các bên tham gia ý kiến được biết, để tạo lòng tin đối với chính quyền.

Từ những phân tích trên đây, có thể đề xuất một số định hướng đổi mới trong hoạch định chính sách công ở nước ta hiện nay:

Thứ nhất, hoạch định chính sách phải dựa trên bằng chứng. Các chính sách được xây dựng phải xuất phát từ thực tiễn và nhằm phúc đáp yêu cầu thực tiễn. Chính sách phải hướng tới lợi ích vượt qua chi phí. Do đó, các yếu tố liên quan đến một chính sách cần phải được đo lường cả về mặt định tính và định lượng rõ ràng. Quá trình đánh giá các phương án chính sách được đưa vào Luật Ban hành văn bản, trở thành yêu cầu bắt buộc. 

Thứ hai, thiết kế bộ máy tinh gọn, hiệu quả. Các yếu tố liên quan đến thiết kế bộ máy quản lý phải chú ý tới việc thành lập mới các cơ quan chỉ khi có căn cứ khẳng định sự cần thiết. Đồng thời, rà soát, xóa bỏ một số tổ chức không cần thiết theo đúng yêu cầu cải cách hành chính, bao gồm cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

Thứ ba, xác định năng lực và nâng cao năng lực cán bộ, công chức tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Cần triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; chú trọng công tác tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và đánh giá cán bộ, công chức về năng lực quản lý nhà nước,  đạo đức, văn hoá công vụ và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Phòng, chống các biểu hiện, hành vi tham nhũng trong hoạch định chính sách công.

Thứ tư, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quá trình hoạch định chính sách công. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, song song với thực hiện tự do kinh doanh và dân chủ hóa kinh tế, hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát các đối tượng quản lý cần được đẩy mạnh. Thực hiện kiểm tra, thanh tra một mặt để ngăn chặn những tác động từ xung đột lợi ích công - tư trong quản lý nhà nước do tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường; mặt khác thúc đẩy việc kiểm soát sự phát triển nhanh và mạnh của thị trường, bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh, thúc đẩy phát triển. Ngoài ra, khi phát hiện các sai phạm cần xử lý nghiêm minh, với hình thức chế tài tương thích.

Thứ năm, hợp tác quốc tế trong hoạt động hoạch định chính sách công. Tính liên thông của thị trường trong nền kinh tế mở đặt ra những yêu cầu quản lý vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, do đó hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước nói chung, trong hoạch định chính sách công nói riêng, đối với từng lĩnh vực cụ thể là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2020

Tài liệu tham khảo:

1. Hiến pháp 2013.

2. Luật Cạnh tranh năm 2019.

3. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

5. Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.

6. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

7. Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12-5-2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.

TS Đặng Xuân Hoan

Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền