Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn Việt Nam*
Thứ sáu, 20 Tháng 11 2020 14:11
3003 Lượt xem

Xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn Việt Nam*

(LLCT) - Trong hệ thống các thiết chế, thể chế giải quyết vấn đề nhân quyền thì cơ quan nhân quyền quốc gia giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ sự cần thiết của việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia và chủ trương của Liên Hợp quốc về vấn đề này. Đồng thời, bài viết cũng đề xuất những định hướng lớn trong việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Cơ quan nhân quyền quốc gia.

1. Sự cần thiết xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia và chủ trương của Liên Hợp quốc

Liên Hợp quốc ra đời đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình đấu tranh của nhân loại vì quyền con người. Từ chỗ chỉ được bảo vệ chủ yếu bởi riêng lẻ từng quốc gia, từ đây quyền con người chính thức được bảo vệ trên phạm vi toàn cầu.

Trong Hiến chương thành lập, Liên Hợp quốc đã trịnh trọng cam kết bảo vệ quyền con người(1) bên cạnh việc theo đuổi mục tiêu bảo vệ nền hòa bình và an ninh chung trên toàn thế giới. Bảo vệ quyền con người không tách rời bảo vệ hòa bình và được xem là biện pháp hữu hiệu nhất để hóa giải xung đột, chiến tranh, bảo vệ nền an ninh toàn cầu. Theo tinh thần đó, cộng đồng quốc tế cùng cam kết: “Tạo mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn công lý và tôn trọng nghĩa vụ do các điều ước và các nguồn khác do luật quốc tế đặt ra; khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn (...) sử dụng cơ chế quốc tế để thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc”(2). Hiến chương cũng xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các quốc gia như điều kiện cho việc giữ gìn hòa bình và bảo vệ quyền con người.

Ba năm sau, Liên Hợp quốc cho ra đời Tuyên ngôn nhân quyền phổ quát (1948), trong đó nhấn mạnh Tuyên ngôn này là “chuẩn mực chung cho tất cả mọi người và các quốc gia, nhằm mục đích cuối cùng là mỗi cá nhân, mỗi tổ chức xã hội luôn ghi nhớ tuyên ngôn này, bằng giáo dục và giảng dạy, sẽ nỗ lực thúc đẩy sự tôn trọng đối với các quyền và tự do cơ bản này, thông qua những biện pháp tiến bộ quốc gia và quốc tế, đảm bảo sự thừa nhận và tuân thủ chung và hữu hiệu...”(3).

Trên cơ sở Tuyên ngôn, Liên Hợp quốc đã thông qua hàng trăm văn kiện nhân quyền, trong đó có gần bốn mươi văn kiện ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên. Đến nay, hầu hết các quốc gia thành viên Liên Hợp quốc đều tham gia hệ thống nhân quyền quốc tế ở những mức độ khác nhau(4). Luật nhân quyền quốc tế không chỉ làm cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật mà còn trở thành hệ tham chiếu cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội ở các quốc gia thành viên.

Xây dựng được các chuẩn mực quốc tế về quyền con người là một thành tựu lớn của Liên Hợp quốc. Nhưng điều quan trọng, thiết thực nhất là làm thế nào để biến những khát vọng đạo đức, những cam kết chính trị và trách nhiệm pháp lý đó thành hiện thực.

Hiến chương Liên Hợp quốc và các văn kiện nhân quyền đã tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho việc thiết lập các cơ cấu quốc tế và quốc gia trong bảo vệ quyền con người; đồng thời xác định, bảo vệ quyền con người trước hết thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia.

75 năm qua, Liên Hợp quốc đã dành nhiều công sức vào việc xây dựng, hoàn thiện và vận hành hiệu quả các cơ chế nhân quyền toàn cầu; tích cực hỗ trợ hoàn thiện cơ chế nhân quyền ở các khu vực; đồng thời khuyến khích mọi chủ thể quốc tế và quốc gia tham gia bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. 

Liên Hợp quốc cũng sớm nhận rõ vai trò của cơ chế nhân quyền quốc gia trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Năm 1946, Hội đồng kinh tế - xã hội Liên Hợp quốc (ECOSOC) đã yêu cầu các quốc gia thành viên xem xét “nhu cầu bức thiết của việc thiết lập các nhóm thông tin hoặc các ủy ban địa phương về quyền con người trong mỗi quốc gia để phối hợp hoạt động của các cơ quan này với hoạt động của Ủy ban nhân quyền Liên Hợp quốc”(5).

Nói đến nhân quyền là nói đến mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước. Nhà nước vừa là chủ thể chính trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, lại vừa là thủ phạm chính của các vi phạm nhân quyền. Để hạn chế các vi phạm nhân quyền, nhà nước nào cũng phải tiến hành các biện pháp như xây dựng, hoàn thiện pháp luật; xây dựng các thể chế nhà nước đủ năng lực bảo vệ công dân trong xã hội cũng như mọi công dân thuộc quyền tài phán của mình.

Cách thức bảo vệ nhân quyền ở mỗi quốc gia khá đa dạng, căn cứ vào đặc thù về thể chế chính trị mỗi nước. Tại các nước tư bản, bảo vệ nhân quyền thể hiện trước hết ở sự phân chia, kiềm chế giữa các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và sự tham gia của xã hội dân sự trong việc bảo vệ quyền con người. Tại các nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, việc bảo vệ quyền con người thuộc về các cơ quan quyền lực nhà nước (được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, song có chức năng kiểm soát lẫn nhau) và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị...

Bảo vệ quyền con người trước hết thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia - chủ thể của luật quốc tế. Mức độ thụ hưởng quyền con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ dân chủ của xã hội, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, nỗ lực của chính phủ. Tuy nhiên, cũng như mọi thực thể xã hội khác, nhà nước cũng có sai phạm. Vấn đề được đặt ra là, làm thế nào để hạn chế hiệu quả sự can thiệp của nhà nước đối với cá nhân trên lĩnh vực dân sự, chính trị?

Ở mỗi nước, dù quyền lực được phân chia theo mô hình “tam quyền phân lập”, hay theo mô hình “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, thì vẫn là chưa đủ để bảo vệ cá nhân trước sự vi phạm quyền.

Vì thế, các cơ quan nhân quyền quốc gia được xem như sự bổ sung tốt cho sự thiếu hụt nói trên. Các “cơ quan” này bao gồm giới truyền thông, các tổ chức công đoàn, các tổ chức phi chính phủ, nói cách khác, đó là tất cả các thực thể của xã hội. Do tính đặc thù, các chủ thể trên có mặt ở mọi nơi trong xã hội, vì thế, nó có thể dễ dàng phát hiện những vi phạm của các tổ chức nhà nước, cá nhân và có thể tham gia trợ giúp hiệu quả nạn nhân ở những mức độ khác nhau. Xã hội càng phát triển, các chủ thể tham gia hoạt động nhân quyền càng phong phú, đa dạng, góp phần thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển mạnh mẽ.

Lý do để Liên Hợp quốc kiên trì quan điểm về sự cần thiết xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia còn xuất phát từ sự thật là pháp luật không đủ để bảo vệ các quyền cụ thể nếu như các văn bản pháp luật không đảm bảo tính chất pháp lý và quyền lực cho các cơ quan cần thiết để bảo đảm thực hiện các quyền đó một cách hiệu quả. Mặt khác, các cơ chế nhân quyền Liên Hợp quốc bị giới hạn cả về nguồn lực cũng như khả năng hành động trực tiếp, đặc biệt trong các vụ việc liên quan đến cá nhân(6).

Từ năm 1990, Ủy ban nhân quyền đã nỗ lực thúc đẩy sự hợp tác quốc tế và sự đồng thuận về các nguyên tắc của cơ quan nhân quyền quốc gia được thể hiện trong Các kết luận của Hội thảo tại Paris, tháng 10-1991. Các kết luận này được Hội nghị nhân quyền thế giới lần thứ hai tại Viên, năm 1993 thông qua, thường gọi vắn tắt là “Nguyên tắc Paris”, tạo cơ sở và đường hướng cho việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia khắp toàn cầu.

Theo định hướng này, Liên Hợp quốc đã quy định ngay trong các công ước, chẳng hạn, Công ước về quyền của người khuyết tật (2006) quy định: “Các quốc gia thành viên của công ước này, dựa trên hệ thống luật pháp và hành chính của mình, sẽ duy trì, tăng cường, chỉ định hoặc thiết lập trong phạm vi quốc gia thành viên một khuôn khổ bao gồm một hoặc nhiều cơ chế độc lập, nếu phù hợp, nhằm thúc đẩy, bảo vệ và giám sát việc thực thi công ước này. Khi chỉ định hoặc thiết lập một cơ chế như vậy, các quốc gia thành viên sẽ tính đến các quy định có liên quan đến vai trò và chức năng của các cơ quan quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người”(7).

Trong Bình luận chung số 2 (năm 2002), Ủy ban về quyền trẻ em “hoan nghênh việc thành lập các tổ chức nhân quyền quốc gia độc lập, thanh tra trẻ em, Ủy viên Hội đồng trẻ em và những tổ chức độc lập tương tự cho việc đẩy mạnh và kiểm tra thực thi Công ước của các quốc gia thành viên”(8). Các Ủy ban về các quyền dân sự, chính trị; Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Ủy ban xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ... cũng có các khuyến cáo tương tự.

Cùng với nỗ lực thực hiện các định hướng lớn về bảo vệ quyền con người được nêu trong Tuyên bố Viên và chương trình hành động (1993), gần 30 năm qua, kể từ khi Liên Hợp quốc đưa ra khuyến cáo về việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia, tiến trình này đã đạt được những tiến bộ khả quan. Đến nay, hơn 100 nước đã thành lập được cơ quan nhân quyền quốc gia, nhiều nước khác đang trong quá trình chuẩn bị thành lập, trong đó, có những nước cùng tồn tại nhiều loại hình cơ quan nhân quyền quốc gia... Cơ chế này ngày càng chứng minh được tính hiệu quả trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, và cho thấy, xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia đang trở thành một xu hướng tất yếu trong việc bảo vệ quyền con người. 

2. Một số định hướng về xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam

Sau khi trở thành thành viên các công ước nhân quyền, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện ngày càng đầy đủ nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người. Các hoạt động lập pháp, tư pháp cũng như thực thi pháp luật và các chương trình hành động quốc gia được đặc biệt quan tâm, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn trên thực tế các quyền con người. Bên cạnh các hình thức giáo dục nhân quyền khá phong phú và linh hoạt, các hoạt động nghiên cứu cũng được chú trọng, nhằm hoàn thiện hơn cơ chế bảo vệ quyền con người.

Bên cạnh các cơ quan thuộc Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cơ quan giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng ngày càng tham gia tích cực vào việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam còn nhận được sự hỗ trợ hiệu quả của các cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp quốc, một số quốc gia và tổ chức phi chính phủ quốc tế. Nhờ đó, gần 30 năm qua, hoạt động trên lĩnh vực này mang một “diện mạo” mới, với nhiều cách thức, biện pháp mới...

Những kết quả đạt được trong bảo vệ quyền con người đã thúc đẩy và góp phần tích cực vào thành tựu chung của đất nước ta thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền con người vẫn cần được quan tâm và thực hiện thường xuyên hơn.

Khi xem xét các báo cáo về nhân quyền của Việt Nam, các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp quốc luôn khuyến cáo về vấn đề này. Đối với Báo cáo lần thứ ba Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Ủy ban công ước khuyến nghị Việt Nam “Cân nhắc thành lập cơ chế giám sát quyền trẻ em độc lập”(9).

Tại Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2, Việt Nam chấp nhận 6/12 khuyến nghị về xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia, thì đến UPR chu kỳ 3, có thêm 9 nước khuyến nghị về vấn đề này(10). Trong số này có nhiều khuyến nghị đến từ các nước đang phát triển. Điều đó đồng nghĩa với việc các nước này đã hoàn thành việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia của mình. 

Đất nước đang tiến hành đổi mới, hội nhập sâu rộng vào các sinh hoạt quốc tế, trên phạm vi toàn cầu cũng như trong khu vực. Bối cảnh ấy càng đặt Việt Nam trước yêu cầu đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền con người, đặc biệt là tìm ra mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia thích hợp với thực tiễn lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.

Bên cạnh các đề xuất quốc tế như trên, cả về lý luận và thực tiễn phát triển của Việt Nam cũng cho thấy, việc bổ sung các thiết chế hướng tới bảo vệ tối đa các quyền con người là một nhu cầu lớn. Chính tiến trình đổi mới, phát triển đất nước đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới về quyền con người. Nhân quyền được xem là động lực của sự phát triển đất nước, nhưng chính sự phát triển đất nước cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề nhân quyền (cả quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội cũng như giữa cá nhân, nhóm xã hội với nhà nước).

Thực tế cho thấy, một cơ quan khi chuyên tâm vào một việc sẽ ngày càng trở nên chuyên nghiệp. Mặt khác, khi được tổ chức theo một cách thức nhất định, tách biệt với trách nhiệm quản lý nhà nước, cơ quan ấy sẽ có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về một hoặc nhiều vấn đề nhân quyền. Bằng việc duy trì khoảng cách nhất định với các cơ quan thuộc chính phủ, một tổ chức như vậy có thể đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và góp phần tạo lập một nền văn hóa nhân quyền ở mỗi quốc gia.

Quá trình hội nhập sâu rộng vào đời sống khu vực và quốc tế, đặc biệt là sự phát triển nội tại của đất nước, đang đặt ra nhu cầu thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia. Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra những căn cứ hiến định cho việc nghiên cứu thành lập cơ quan này.

Thể chế hóa các nguyên tắc hiến định của Hiến pháp năm 2013 trong mọi hoạt động, Chính phủ đều công khai, minh bạch các hoạt động về quyền con người. Sách trắng Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam nêu rõ những ưu tiên và cam kết “tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ quyền con người, trong đó có việc xem xét thành lập Cơ quan Nhân quyền quốc gia”(11).

Trong Báo cáo giải trình về các chấp nhận và từ chối khuyến nghị của các quốc gia đối với UPR lần 3, Nhà nước Việt Nam nêu rõ: “Với các khuyến nghị về cơ quan nhân quyền quốc gia, Việt Nam không thể chấp nhận các khuyến nghị hay các yếu tố định trước kết quả hoặc đặt ra áp lực không hợp lý với việc nghiên cứu và chuẩn bị đang tiến hành để có thể thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam”.

Tại Quyết định số 1975/QĐ-TTg, ngày 31-12-2019 Về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện các khuyến nghị Việt Nam chấp thuận theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát về quyền con người chu kỳ 3 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Công an chủ trì với sự phối hợp của Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao nghiên cứu việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam.

Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng cho việc đẩy mạnh các hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền. Trên thực tế, những năm qua, Việt Nam không ngừng hoàn thiện bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm làm giàu thêm tri thức bảo vệ nhân quyền. 

Để xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam, cần khẳng định một số quan điểm sau:

Thứ nhất, mục tiêu của việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia là nhằm đảm bảo tốt hơn quyền con người ở Việt Nam. Vì vậy, mọi tìm kiếm mô hình, phương thức tổ chức, hoạt động của cơ quan này phải hướng tới thực chất và tính khả thi.

Liên Hợp quốc hiện đang bảo trợ hoạt động của Tổ chức Liên minh toàn cầu các cơ quan nhân quyền quốc gia (GANHRI), lấy Nguyên tắc Paris làm tiêu chí đánh giá mức độ tương thích về tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, điều này không cản trở việc chúng ta lựa chọn xây dựng một cơ quan nhân quyền quốc gia phù hợp thực tiễn chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam, như một nội hàm của quyền dân tộc tự quyết.

Về dài hạn, cơ quan nhân quyền quốc gia cần tương thích với mô hình đang được cộng đồng quốc tế chia sẻ rộng rãi; nghĩa là cần lấy Nguyên tắc Paris về cơ quan nhân quyền quốc gia làm điểm tham chiếu, mặc dù trước mắt có thể có bước quá độ.

Thứ hai, thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia là sự bổ sung chứ không thay thế các cơ chế, tổ chức, bộ máy hiện có trong bảo vệ quyền con người. Vì vậy, việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam cần phù hợp với thực tiễn chính trị, xã hội, pháp lý và truyền thống văn hóa ở Việt Nam; đặc biệt kế thừa các nguyên tắc, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động hiện hành.

Thứ ba, xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia cần gắn với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Việc tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm quyền con người. Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn chức năng của các cơ quan Nhà nước về nhiệm vụ này. Như vậy, việc tìm kiếm, bổ sung các cơ chế mới chỉ có tác dụng khi bản thân các nhánh quyền lực cũng nhận thức rõ và không ngừng đổi mới chính mình. Ngược lại, dù có bổ sung thêm bao nhiêu cơ chế đi chăng nữa, nhưng bản thân bộ máy nhà nước không chuyển động thì các cơ chế mới cũng mất tác dụng và trở nên vô nghĩa.

Với ý nghĩa ấy, việc xây dựng, kiện toàn các cơ quan nhân quyền phải gắn liền với đổi mới các cơ quan nhà nước, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

Thực tế hoạt động của Nhà nước Việt Nam cho thấy, một cơ quan khi được trao nhiều chức năng thì rất khó làm tròn trách nhiệm, còn một cơ quan chỉ chuyên vào một lĩnh vực nhất định sẽ dễ hoàn thành trọng trách được trao. Theo đó, một cơ quan nhân quyền quốc gia, nếu được trao những thẩm quyền nhất định và được tạo điều kiện cần thiết nhất định sẽ tạo được bước bứt phá trong việc bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam.

Một số yêu cầu đặt ra về địa vị pháp lý của cơ quan này hay sự chồng chéo giữa cơ quan này với các cơ quan Nhà nước đều có thể được giải quyết cùng với tiến trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.     

Cũng cần lưu ý, Nguyên tắc Paris được thiết kế từ thực tiễn các nước tư bản nên tính độc lập của thiết chế này được đề cao tuyệt đối và theo cách hiểu của chủ nghĩa tự do. Ở Việt Nam, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì thế, sự “độc lập” của cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam chỉ có nghĩa tương đối, tức cơ quan này có quan điểm, cách nhìn độc lập, nhưng cùng hướng tới mục tiêu chung đã được xác định của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.   

Thứ tư, Việt Nam đang cùng hợp tác với các nước theo đuổi một trật tự thế giới mới, mà tuân thủ pháp luật quốc tế là yêu cầu đối với mọi quốc gia. Vì vậy, tuân thủ các quy định và xu hướng chung của Luật nhân quyền quốc tế là bước đi quan trọng. Nhờ đó, Việt Nam sẽ nhận được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực quan trọng khác, nhằm bảo vệ tốt nhất các lợi ích quốc gia.

Từ các định hướng nói trên, hy vọng, một mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia phù hợp sẽ nhận được sự đồng thuận của mọi tầng lớp xã hội, vì một đất nước Việt Nam hòa bình, phát triển và ngày càng bảo vệ đầy đủ các quyền con người.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2020

* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong Đề tài mã số 505.01-2018.03.

(1), (2) Hiến chương: “Tuyên bố một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ” (xem Các công ước về quyền con người. Trung tâm nghiên cứu quyền con người, xuất bản 2002, tr.19).

(3) Văn phòng Thường trực Ban chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ: Các công ước cơ bản về quyền con người, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011, tr.8.

(4) Chẳng hạn, đến tháng 7-2020 đã có 173 quốc gia là thành viên Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị,  171 quốc gia là thành viên Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; 170 quốc gia là thành viên Công ước chống tra tấn và sử dụng các hình thức trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người; 189 quốc gia là thành viên Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; 196 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên Công ước về quyền trẻ em... Xem tại: https://indicators.ohchr.org.

(5) Những nội dung cơ bản về quyền con người (Fact Sheet No.19). Trung tâm nghiên cứu quyền con người, xuất bản năm 2002, tr.426. Ủy ban nhân quyền từ năm 2006 được thay thế bởi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc.

(6) Xem: Tài liệu đã dẫn, tr.423-425.

(7) Các công ước cơ bản về quyền con người, Sđd, tr.232.

(8) Viện Nghiên cứu quyền con người: Bình luận và khuyến nghị chung của các Ủy ban công ước thuộc Liên Hợp quốc về quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.600.

(9) Ủy ban Nhân quyền, trong Nhận xét kết luận về báo cáo định kỳ lần thứ ba Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Việt Nam (28-8-2019), khuyến cáo: “Trong khi ghi nhận sự tồn tại của các cơ quan chính phủ trong nước với chức năng liên quan đến nhân quyền, Ủy ban vẫn quan ngại về sự thiếu vắng một cơ quan độc lập tuân thủ các nguyên tắc về vị thế của cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền (theo các nguyên tắc Paris). Ủy ban lấy làm tiếc về việc thiếu vắng những hành động cũng như một khuôn khổ thời gian chắc chắn cho việc thành lập một cơ quan như vậy (Điều 2)... Nhắc lại khuyến nghị trước đây (CCPR/CO/75/VNM, đoạn 11), Ủy ban khẳng định Nhà nước thành viên phải nhanh chóng thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, phù hợp với các Nguyên tắc Paris”.

(10) Việt Nam chấp nhận: 4; chấp nhận một phần: 1; không chấp nhận: 4. Các khuyến nghị không được chấp nhận đều liên quan đến yêu cầu thành lập cơ quan này theo Nguyên tắc Paris.

(11) Bộ Ngoại giao: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, Hà Nội, 2017, tr.79

PGS, TS Đặng Dũng Chí

TS Lê Thị Thu Mai

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền