Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản: Ý nghĩa đối với Việt Nam
Thứ hai, 18 Tháng 1 2021 15:49
17421 Lượt xem

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản: Ý nghĩa đối với Việt Nam

(LLCT) -  Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa dân chủ và chuyên chính có mối quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình xây dựng xã hội mới. Trong đó, dân chủ là mục tiêu còn chuyên chính vô sản là phương tiện bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, lợi dụng những hạn chế trong việc thực hành dân chủ ở nước ta, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá cách mạng Việt Nam trên mọi lĩnh vực, trong đó có vấn đề thực thi dân chủ. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính vào thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, dân chủ XHCN, chuyên chính vô sản.

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính

Ngay từ những tác phẩm đầu tiên của mình, C.Mác đã khẳng định: giai cấp vô sản sau khi giành được cách mạng cần: “tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản”(1) và điểm khác biệt căn bản giữa chế độ dân chủ với chế độ chuyên chế là: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà luật pháp tồn tại vì con người... Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”(2). Tuy nhiên, sau này do yêu cầu của thực tiễn cách mạng, C.Mác đã cho rằng, mục tiêu sau cách mạng vô sản là giai cấp công nhân cần “đập tan” bộ máy nhà nước tư sản hay: “Lật đổ giai cấp tư sản! Chuyên chính của giai cấp công nhân”(3) và chuyên chính vô sản tất yếu phải dựa vào bạo lực, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột, củng cố nền thống trị của giai cấp vô sản. Đồng thời, chuyên chính vô sản là để đi đến tư tưởng về giai đoạn quá độ của xã hội không còn khác biệt giai cấp: “chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó”(4).

Công xã Pari đã tiến hành cuộc thử nghiệm vĩ đại về chuyên chính vô sản, đã tìm thấy hình thức chính trị kiểu mới để giải phóng giai cấp vô sản. Đó là sự sáng tạo vĩ đại và chiến công lịch sử lớn nhất của Công xã Pari. Trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, C.Mác đã chỉ ra rằng: “Bí quyết thực sự của Công xã là ở chỗ: về thực chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh của giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho nó có thể thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”(5). Đến đây chúng ta thấy rõ, mục tiêu cuối cùng thực hiện chuyên chính vô sản của C.Mác là nhằm thực hành nền dân chủ mới, giải phóng lao động về mặt kinh tế, là tiến tới xã hội không còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công.

Là học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo quan niệm về thực hiện dân chủ gắn liền với chuyên chính thời kỳ quá độ ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười. Điều đó được thể hiện như sau:

Một là, những năm đầu, ngay sau Cách mạng Tháng Mười, do điều kiện chống thù trong giặc ngoài, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính chất và chức năng trấn áp bằng bạo lực của chuyên chính. V.I Lênin viết: “Chuyên chính là một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả”(6). “...Chuyên chính là một chính quyền sắt, có dũng khí cách mạng và nhanh chóng, thẳng tay khi cần trấn áp bọn bóc lột cũng như bọn lưu manh”(7). Cần nhấn mạnh chức năng bạo lực vì, trong giai đoạn này, vẫn còn nhiều bọn lưu manh và giai cấp bóc lột tuy đã bị lật đổ nhưng luôn nuôi hy vọng trở lại cầm quyền. Bọn chúng muốn biến hy vọng đó thành hoạt động lật đổ. Hơn nữa, khi một xã hội mới hình thành, bên cạnh những nhân tố mới, tiến bộ, thì những tàn dư lạc hậu của xã hội cũ, những phần tử hủ bại... vẫn chưa mất đi hẳn, chúng ẩn dật, chờ thời cơ để thực hiện những hoạt động chống phá chính quyền non trẻ. Do đó, để bảo vệ chính quyền xô viết mới thì cần sử dụng chuyên chính, thậm chí nếu cần thiết, phải có bàn tay sắt, phải dùng bạo lực, trấn áp.

Hai là, trong thời kỳ xây dựng đất nước, V.I.Lênin đã chỉ rõ, thực chất của “Chuyên chính không phải chỉ có nghĩa là bạo lực”(8) mà “chuyên chính của giai cấp vô sản nhất thiết phải đưa đến chỗ không những thay đổi những hình thức và những thiết chế dân chủ nói chung, mà chính là phải thay đổi chúng thế nào để mở rộng nền dân chủ đến một mức độ chưa từng có trên thế giới cho những giai cấp lao động bị chủ nghĩa tư bản áp bức”(9). Khẳng định điều này, V.I Lênin đã cho chúng ta thấy, trong cách mạng vô sản và sau Cách mạng Tháng Mười, do đất nước còn nhiều các thế lực chống đối, phản động nên tất yếu phải sử dụng bạo lực. Nhưng sau khi cách mạng đã thành công và đất nước dần đi vào ổn định thì thực hiện chuyên chính không chỉ là dùng bạo lực, không chỉ là sử dụng công cụ quân đội, cảnh sát để trấn áp các thế lực phản động, mà quan trọng hơn là xây dựng chính quyền, mở rộng dân chủ cho nhân dân lao động. Nói cách khác, chuyên chính trong thời kỳ quá độ là xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ kiểu mới, xây dựng nền dân chủ thực chất hơn, tiến bộ hơn chính quyền chuyên chính tư sản. Do vậy: “... nhà nước trong thời kỳ đó tất nhiên phải là một nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người không có của), và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”(10). Vậy là, sau khi cách mạng vô sản giành được thắng lợi phải thiết lập một nền dân chủ mới, nền dân chủ XHCN. Vì thế, dưới nền dân chủ Xô viết, các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí... được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động. Theo đó, nền dân chủ XHCN mang tính nhân dân rộng rãi. Trong XHCN, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật...). Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp. Sức sống của nền dân chủ XHCN chính là sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhân dân có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người viết: “toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào”(11).

Thực tiễn lịch sử xã hội loài người cũng đã chứng minh, mọi xã hội còn phân chia giai cấp thì còn tồn tại chuyên chính, kể cả xã hội tư sản. Điều đó cũng đã được V.I.Lênin khẳng định: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”(12). Trong xây dựng CNXH hiện thực cũng cho thấy, dân chủ XHCN cũng bao hàm dân chủ và chuyên chính. Tuy nhiên, có khác nhau về bản chất, bởi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ kiểu mới và chuyên chính kiểu mới, nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, là “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”(13). Trong nền dân chủ XHCN, tính nhân dân rộng rãi không tách rời bản chất giai cấp công nhân; việc thực hiện dân chủ đối với giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động không tách rời việc hạn chế dân chủ, thậm chí tước đoạt dân chủ đối với bọn bóc lột. Bởi, trong các xã hội có giai cấp và nhà nước, dân chủ là công cụ, phương tiện được giai cấp thống trị dùng để củng cố, bảo vệ địa vị thống trị của mình thông qua luật hóa các quyền công dân, quyền con người; nhưng đồng thời, dân chủ cũng là ngọn cờ để giai cấp bị thống trị đấu tranh giành và bảo vệ các quyền của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì không chuyên chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân... Dân chủ và chuyên chính là quan hệ mật thiết với nhau”(14). Dưới chế độ tư bản, phong kiến, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân.

2. Thực hành dân chủ và chuyên chính thời kỳ trước đổi mới

Quá trình xây dựng CNXH hiện thực ở một số nước trên thế giới, do giải quyết không đúng mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính nên đã dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Lúc bấy giờ, các nước XHCN đã nhận thức chưa đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa chuyên chính và dân chủ trong xây dựng xã hội mới. Giản lược hóa vấn đề này của chủ nghĩa Mác - Lênin thành công thức giáo điều, xa rời điều kiện lịch sử - cụ thể. Nhất là sau khi V.I.Lênin mất, giai đoạn đầu xuất hiện xu hướng cường điệu, tả khuynh trong vấn đề đấu tranh giai cấp, tuyệt đối hóa chuyên chính vô sản bằng cách đề cao vai trò của bạo lực. Xu hướng này cho rằng, bạo lực là phương pháp bảo vệ nhà nước chuyên chính vô sản, do đó, chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng nền dân chủ XHCN và cơ chế để bảo đảm dân chủ. Trong thực tế, tình trạng chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ khá phổ biến ở các nước XHCN hiện thực. Thời gian sau, lại xuất hiện xu hướng buông lỏng chuyên chính. Xu hướng này cho rằng, cần chuyển từ nhà nước chuyên chính vô sản đến nhà nước toàn dân. Bởi đây là giai đoạn mới trong sự phát triển của nhà nước XHCN, là một cột mốc cực kỳ quan trọng trên con đường tổ chức nhà nước XHCN thành chế độ tự quản trong xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa cộng sản, đảng mác xít - lêninnít sẽ trở thành đảng của toàn dân. “Đảng mácxít - lêninnít của chúng ta với tư cách là chính đảng của giai cấp công nhân, biến thành đảng của toàn thể nhân dân”. Những vấn đề lý luận về “xã hội không có giai cấp”, “nhà nước toàn dân” và “đảng toàn dân”, là khuynh hướng phủ định chuyên chính vô sản, coi nhẹ chức năng trấn áp trong chính sách đối nội của nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã góp phần dẫn đến sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu.

Ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới, chúng ta cũng đã nhận thức không đầy đủ về chuyên chính, quá tuyệt đối vai trò của bạo lực trong nhà nước chuyên chính vô sản mà chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề xây dựng nền dân chủ XHCN. Đặc biệt, trong thời kỳ cải cách ruộng đất của Việt Nam, chúng ta đã cực đoan khi giải quyết vấn đề giai cấp, không phù hợp điều kiện lịch sử - cụ thể. Trong hệ thống chuyên chính vô sản thời kỳ trước đổi mới (1986), mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được xác định thật rõ, mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế XHCN còn nhiều thiếu sót. Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả; cơ quan dân cử các cấp được lựa chọn, bầu cử và hoạt động một cách hình thức. Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế -xã hội cơ bản và cấp bách. Vì vậy, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3-1989) lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “chuyên chính vô sản” nhằm tránh hiểu nhầm, cứ chuyên chính là dùng bạo lực và chuyên chính là đối lập với dân chủ. Cũng tại Hội nghị này, Đảng ta khẳng định nguyên tắc xây dựng nền dân chủ với nhân dân nhưng chuyên chính với kẻ thù: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội”(15). Thực hiện nguyên tắc này là xây dựng nền dân chủ XHCN vì nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật và nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng XHCN cũng như làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

3. Giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ và tăng cường pháp chế ở Việt Nam hiện nay

Tình hình thực thi dân chủ ở nước ta trong những năm gần đây đã có sự tiến bộ đáng kể. Trong Văn kiện Đại hội XII có một mục riêng (mục XIII của Báo cáo chính trị) đã trình bày, đánh giá một cách sâu sắc tình hình, thành tựu, hạn chế; nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và các phương hướng, nhiệm vụ phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Ngoài ra, tinh thần phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân còn được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ các văn kiện của Đại hội và thể hiện khá tập trung trong các mục về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển văn hóa, con người; quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN... Những khẳng định trên cho thấy, mục tiêu của Đảng là luôn hướng tới xây dựng nền dân chủ XHCN vì nhân dân.

 Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ” để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng nhằm chuyển hóa nền dân chủ ở nước ta. Trên một số trang mạng xã hội, các thế lực thù địch rêu rao rằng Việt Nam không có dân chủ, chế độ xã hội mà Việt Nam đang xây dựng là chế độ độc đảng toàn trị; “chừng nào ở Việt Nam chỉ có độc nhất một đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền dân chủ chân chính được”(!);...; rằng ở Việt Nam muốn có dân chủ thực sự thì phải hội nhập vào xu thế đa đảng như nước ngoài họ đã từng làm và đã đến lúc Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới học thuyết, đường lối, tìm ra mô hình mới mang “bản chất dân chủ”, hòa nhập với “thế giới dân chủ”; chúng đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng nước ta. Để thực hiện được âm mưu này, chúng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, coi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước; chúng triệt để lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lợi dụng các vụ việc phức tạp xảy ra ở trong nước để xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước... Đây là những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu trong thực thi dân chủ ở nước ta. Vì vậy, cần khẳng định: dân chủ phải gắn liền với chuyên chính, với kỷ cương, kỷ luật, với trật tự xã hội. Chuyên chính không phải là mục đích của dân chủ mà là phương tiện bảo vệ nền dân chủ XHCN. Chuyên chính được chế độ dân chủ XHCN sử dụng để bảo vệ những lợi ích của nhân dân, chống lại những kẻ đi ngược lợi ích của nhân dân, đi ngược lại chế độ dân chủ của nhân dân. Đồng thời, dân chủ XHCN là mục tiêu, là động lực của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Văn kiện Đại hội XII (2016) của Đảng khẳng định: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội”(16). Đặc biệt, trong Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung mối quan hệ thứ mười cần phải giải quyết trong nhiệm kỳ tới là: thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là chủ trương đúng đắn trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính, đồng thời phù hợp với nhu cầu thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Để giải quyết tối mối quan hệ thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, hiện nay chúng ta cần thực hiện tốt nhiệm vụ sau:

Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì chỉ có nhà nước pháp quyền XHCN mới có đầy đủ cơ sở khách quan để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; phát huy được đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến và ở đó dân chủ được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, nhà nước pháp quyền XHCN cũng là cơ sở để thực hiện dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, dân chủ được thể chế hóa thành pháp luật và trong khuôn khổ của pháp luật, sẽ nghiêm trị những ai lợi dụng dân chủ để trục lợi cá nhân, phá hoại thành quả của cách mạng.

Hai là, vấn đề dân chủ có liên quan mật thiết với việc duy trì tự do dân chủ và kỷ cương, kỷ luật trong nhân dân. Do vậy, cần tăng cường pháp chế, tăng cường quản lý mọi hoạt động của xã hội, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành vi sai trái của các thế lực phản động lợi dụng dân chủ để chống phá cách mạng nước ta. Chúng ta phải tuyệt đối đề cao cảnh giác, đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử cơ hội, phản động quyết tâm giữ vững an ninh chính trị - xã hội, an toàn xã hội, thành quả của cách mạng và nền dân chủ XHCN.

Ba là, quyết tâm chống tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị. Muốn chống quan liêu, tham nhũng triệt để cần phải có nền pháp trị nghiêm minh, không được ai đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Đồng thời, để bài trừ căn bệnh này, V.I.Lênin cho rằng, cần phải “phát triển dân chủ đến cùng”(17)... Thực tế trong thời gian gần đây, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta đã đạt kết quả toàn diện. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Đảng ta đã thi hành kỷ luật gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Qua đó, đã khẳng định quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” trong phòng, chống tham nhũng nhằm làm trong sạch hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ XHCN.

Mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính, kỷ cương, kỷ luật tồn tại khách quan ở mỗi nền dân chủ. Vấn đề quan trọng là dân chủ cho ai và chuyên chính với ai. Ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng và thực hành dân chủ XHCN là mục tiêu, động lực của CNXH. Đồng thời, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là cách thức bảo vệ thành quả cách mạng và nền dân chủ XHCN. Vì vậy, chúng ta không tuyệt đối hóa mặt nào và cũng không được coi nhẹ mặt nào. Với đối tượng dân chủ cực đoan, đối tượng vi phạm pháp luật, cũng như các thế lực thù địch, chúng ta cần đấu tranh không khoan nhượng, ngăn chặn và trừng trị thích đáng. Với nhân dân, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân như mục tiêu của Đảng đưa ra trong các văn kiện gần đây.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2020

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.469 - 470.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.350.

(3), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.48, 126.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.454.

(6), (9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.296, 608.

(7) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.240.

(8) V.I.Lênin: Toàn tập, t.38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.442.

(10), (12), (13), (17) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.43, 44, 109, 97.

(11) V.I.Lênin: Toàn tập, t.32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.180.

(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.247.

(15) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.591-592.

(16) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.170.

PGS, TS Lê Thị Thanh Hà

Viện Triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền