Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII
Thứ ba, 16 Tháng 11 2021 17:01
3240 Lượt xem

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII

(LLCT) - Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân (TAND) là nội dung quan trọng, xuyên suốt trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta. Đảng và Nhà nước luôn luôn bảo đảm bằng những cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý để TAND thực sự là chỗ dựa của nhân dân, nơi người dân tìm đến để bảo vệ công lý, duy trì lẽ phải và công bằng. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tổ chức và hoạt động của tòa án vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.

Ảnh minh họa: Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn: vnexpress.net

Cải cách tư pháp là chủ trương lớn của Đảng, chủ trương này được thể hiện một cách đầy đủ, cụ thể và rõ ràng nhất trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cả về mục tiêu, quan điểm, phương pháp và nhiệm vụ, cũng như tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở chính trị quan trọng, là kim chỉ nam cho các hoạt động thực tiễn về tư pháp.

Trải qua gần 20 năm, kể từ ngày Nghị quyết số 49 được ban hành, công cuộc cải cách tư pháp nói chung và cải cách tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng: nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được tinh gọn và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, hạn chế tình trạng oan, sai, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Cải cách tư pháp đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đề cao vai trò của tòa án, bảo đảm tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm trong hoạt động tố tụng là quan điểm và chủ trương mang tính đột phá của Đảng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cải cách tư pháp trong thời gian qua cho thấy cả về mặt nhận thức cũng như thực tiễn xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - những cơ sở lý luận và pháp lý quan trọng bảo đảm tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Tổ chức và hoạt động của tòa án vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra quan điểm và chủ trương cải cách tư pháp trong giai đoạn mới: “Xây dựng và thực hiện chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, cơ quan thực hiện quyền tư pháp và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp”.

Để thực hiện một cách hiệu quả các quan điểm trên đây của Đảng, chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhưng trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung vào nhóm giải pháp xây dựng và hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TAND.

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống bộ máy của TAND. Mỗi nhánh quyền lực đều có đặc trưng riêng, thể hiện bản chất của nhánh quyền lực đó và quyết định đến cách thức tổ chức và hoạt động của nhánh quyền lực tương ứng. Độc lập là đặc trưng quan trọng nhất và tất yếu của quyền tư pháp. Nếu quyền tư pháp bị tác động, can thiệp trái pháp luật từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân thì nó sẽ không thể vận hành một cách khách quan, mà tính khách quan lại là yêu cầu tất yếu thể hiện công lý. Nếu tư pháp không bảo đảm tính khách quan thì chắc chắn công lý sẽ không được thực thi, lẽ phải, công bằng sẽ không được đặt đúng nơi cần đặt và khi đó, không thể thực hiện được sứ mệnh của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, độc lập là đặc trưng tất yếu của quyền tư pháp.

Để bảo đảm tòa án thực sự độc lập, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, nhưng trước tiên phải tổ chức hệ thống tòa án sao cho độc lập với các cơ quan trong hệ thống chính trị và độc lập giữa các cấp tòa án với nhau. Đối với hệ thống tổ chức của tòa án, không có tòa án cấp trên và tòa án cấp dưới, các tòa án phải độc lập với nhau. Đây cũng là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung và cải cách tòa án nói riêng.

 Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TAND tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Đây là quan điểm mang tính đột phá của Đảng nhằm bảo đảm sự độc lập của tòa án và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và uy tín của TAND.

Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận quan điểm của Đảng về tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử ở chừng mực nào đó chưa thực hiện được vì chưa có cơ sở pháp lý cho vấn đề này. Hiện nay, hệ thống bộ máy tòa án vẫn được tổ chức theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014, bao gồm: TAND tối cao, TAND các cấp, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện và Tòa án quân sự. Như vậy, chủ trương của Đảng về việc thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực vẫn chưa được thực hiện trên thực tế. Trong thời gian tới, chúng ta phải quán triệt một cách sâu sắc các quan điểm của Đảng nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy TAND, đặc biệt là TAND cấp huyện theo hướng thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực.

Việc thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực sẽ đáp ứng được hai tiêu chí vô cùng quan trọng:

Một là, bảo đảm nguyên tắc độc lập. Độc lập là nguyên tắc hiến định. Điều 103, khoản 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong thời gian qua cho thấy, từ tên gọi, trụ sở làm việc, sinh hoạt Đảng đều gắn với đơn vị hành chính cấp huyện. Bên cạnh đó, cơ chế tài chính của ngành tòa án nói chung và TAND cấp huyện nói riêng vẫn không hoàn toàn tự chủ. Hằng năm, TAND cấp huyện vẫn phải nhờ ủy ban nhân dân cùng cấp hỗ trợ tài chính để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc hoặc tổ chức phiên tòa lưu động… Ngoài ra, các cơ quan trong hệ thống chính trị cùng cấp và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó đều có tiếng nói, đôi khi quyết định đến việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo cũng như các chức danh tư pháp của TAND cấp huyện, làm cho tòa án rất khó độc lập trong quá trình tổ chức và hoạt động, đặc biệt là tòa án hành chính. Thực tế đã có trường hợp cả cấp ủy đảng và chính quyền địa phương can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của tòa án, làm cho phán quyết của tòa án không phản ánh đúng sự thật khách quan (ví dụ: vụ án đất đai ở Đồ Sơn, Hải Phòng năm 2005). Bởi vậy, nếu Tòa án sơ thẩm khu vực được thành lập sẽ khắc phục được những bất cập nêu trên. Vì khi đó Tòa án sơ thẩm khu vực sẽ không còn gắn với đơn vị hành chính cấp huyện nữa.

Hai là, góp phần tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy. Đảng và Nhà nước ta đang quyết liệt thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy. Con người và bộ máy nằm trong mối quan hệ thống nhất, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau và ảnh hưởng nhau. Cán bộ có năng lực nhưng làm việc trong bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng, nấc thì công việc sẽ không bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Ngược lại, bộ máy tinh gọn, năng động nhưng cán bộ lại không có năng lực thì chất lượng công việc cũng không được bảo đảm. Do đó, chúng ta phải đổi mới cả hai yếu tố trong mối quan hệ thống nhất này.

Nhưng, trên thực tế, việc thực hiện chủ trương tinh giản biên chế gặp rất nhiều khó khăn, đôi khi không khả thi vì lý do chính là Chính phủ cũng như từng hệ thống cơ quan chưa xây dựng được bộ tiêu chí mang tính định lượng để đánh giá từng vị trí việc làm. Bên cạnh đó, công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức còn mang tính hình thức, nể nang, chưa thực chất. Kết quả gần như 100% hoàn thành nhiệm vụ trở lên, với kết quả đó thì không thể loại ai ra khỏi hệ thống được. Nhưng, nếu Tòa án sơ thẩm khu vực được thành lập thì chắc chắn chủ trương tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy trong ngành tòa án sẽ được tiến hành một cách hiệu quả.

Với tiêu chí một, hai nhưng không quá ba đơn vị hành chính cấp huyện thành lập một Tòa án sơ thẩm khu vực, thì cả nước có 700 huyện (làm tròn), bình quân hai huyện thành lập một Tòa án sơ thẩm khu vực thì sẽ giảm được 350 đơn vị tòa án. Tương tự như vậy cũng sẽ giảm được 350 đơn vị viện kiểm sát (viện kiểm sát phải tổ chức phù hợp với mô hình tổ chức của tòa án). Và khi đó sẽ tinh giản được 5.600 biên chế (mỗi  đơn vị tòa án cần phải có ít nhất 8 biên chế). Thực tiễn xét xử cho thấy, có những đơn vị tòa án, lượng án giải quyết trong năm chưa đến 100 vụ (các huyện đảo và các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa…) nhưng vẫn phải tổ chức tòa án ở đó, gây lãng phí rất nhiều cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, việc thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực hoàn toàn đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ đặt Tòa án nơi có việc.

Thứ hai, bảo đảm công khai, minh bạch và tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho công dân.

Quyền tư pháp là một bộ phận hợp thành quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là công khai, hợp pháp, do đó, quyền tư pháp đương nhiên phải công khai, hợp pháp. Nhà nước phải có cơ chế pháp lý bảo đảm tính công khai của quyền tư pháp để hạn chế sự tha hóa từ nhánh quyền lực thứ ba.

Tư pháp công khai là tư pháp không giữ kín, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đều có thể biết và giám sát được. Công khai cần được thể hiện trong những hoạt động cụ thể, từ: (1) xây dựng pháp luật về tư pháp. Toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật về tư pháp cần phải được công khai để nhân dân biết, tham gia và giám sát nhằm hạn chế tối đa tình trạng tham nhũng chính sách trong các dự án luật đã và đang tồn tại; (2) hệ thống tòa án. Bộ máy tòa án phải được thành lập một cách công khai, đúng pháp luật. Trụ sở làm việc của tòa án cần phải được thông báo công khai, rộng rãi để mọi người dân biết, liên hệ dễ dàng, thuận tiện; (3) hoạt động của tòa án. Hoạt động chính của tòa án là xem xét cần phải công khai. Xét xử công khai bao gồm cả phiên tòa xét xử công khai (trừ trường hợp phiên tòa xử kín theo quy định pháp luật). Xét xử công khai bao gồm: tổng số vụ án thụ lý và xét xử từng năm; Số lượng án oan, sai, hủy, sửa; Công khai bản án, quyết định; Công khai án lệ; (4) Thẩm phán. Toàn bộ quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, nhiệm kỳ, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán phải được công khai. Công khai số lượng Thẩm phán, thu nhập của Thẩm phán, đặc biệt phải công khai số lượng Thẩm phán vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong từng năm cũng như trong cả nhiệm kỳ để nhân dân giám sát được hiệu quả (điều này càng trở nên quan trọng trong điều kiện Việt Nam chưa có một tổ chức xã hội nghề nghiệp đủ mạnh, đủ uy tín, đủ công cụ để quản lý đội ngũ Thẩm phán).

Minh bạch tư pháp được thể hiện ở tính rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu trong các quy định pháp luật về tư pháp; trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp tòa án; trong các phán quyết của tòa án; trong quy trình bổ nhiệm thẩm phán. Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm công khai, minh bạch các quyết định của mình. Các quyết định đó phải được giới luật sư, truyền thông, công chúng biết và giám sát - yếu tố quan trọng để kiểm soát nhánh quyền lực thứ ba (quyền tư pháp).

Tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho người dân.

Công lý là một giá trị, là lẽ phải, là nhân ái, không thiên vị, không bị sự chi phối bởi lợi ích bất chính. Đó là sự công bằng, bình đẳng, khách quan, vô tư trong xét xử và giải quyết các vấn đề xung đột lợi ích. Đây vừa là yêu cầu và mục tiêu phát triển của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Tòa án là hiện thân của công lý. Xuyên suốt chiều dài lịch sử khi nói đến công lý là nói đến tòa án. Tòa án là biểu tượng của công lý - nơi người dân tìm đến để duy trì lẽ phải và công bằng. Tòa án với tư cách là thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ công lý. Điều 102, khoản 3, Hiến pháp 2013 quy định: TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Quy định này là kết quả của quá trình pháp điển hóa các quan điểm của Đảng về khả năng tiếp cận công lý cho người dân. Cụ thể, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị Về  chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; hoặc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, về thẩm quyền xét xử, về tranh tụng, về luật sư, về trợ giúp pháp lý… lấy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân làm mục tiêu. Văn kiện Đại hội Đảng XIII tiếp tục khẳng định “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (tr.149).

Tòa án, thông qua hoạt động xét xử đưa ra các phán quyết về các tranh chấp, xung đột trong xã hội, các chủ thể có liên quan có nghĩa vụ phải thi hành các phán quyết tòa án đã đưa ra - đây chính là phương thức để tòa án duy trì và bảo vệ công lý. Do đó, khi người dân tiếp cận đến tòa án thì điều đó cũng có nghĩa là người dân tiếp cận đến công lý, tìm kiếm công lý nơi tòa án. Tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho người dân nghĩa là tăng cường khả năng của người dân tiếp cận đến tòa án. Để làm được điều này đòi hỏi phải tăng cường khả năng từ hai phía.

- Phía nhà nước: Nhà nước phải bảo đảm quyền được xét xử và xét xử kịp thời, quyền bình đẳng trước pháp luật, trước tòa án. Công lý chậm trễ là công lý bất công, công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối. Chính vì vậy, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 xác định “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước tòa án nhằm mục đích để tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”; “Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong tố tụng dân sự”.

Bên cạnh đó, Nhà nước phải bảo đảm quyền có mặt trong khi xét xử của bị can, bị cáo; quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa; quyền kháng cáo yêu cầu tòa án cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt. Cùng đó, Nhà nước phải có chính sách phù hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ về số lượng, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật, kỷ cương và bản lĩnh, công tâm và trách nhiệm. Quyền tiếp cận công lý đòi hỏi Nhà nước phải đa dạng hóa các hình thức trợ giúp pháp lý; đa dạng hóa các thủ tục tố tụng tư pháp. Các thủ tục tố tụng phải bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham gia và triệt để tôn trọng quyền con người, quyền công dân.

- Phía công dân:

Từng người dân phải thường xuyên nâng cao ý thức pháp luật, tạo thói quen khai thác và sử dụng các dịch vụ pháp lý (cả dịch vụ pháp lý công và dịch vụ pháp lý tư) nhằm bảo vệ và thực hiện ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời góp phần thúc đẩy các dịch vụ pháp lý phát triển.

TS TRẦN VĂN QUÝ

Viện Nhà nước và Pháp luật,

 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền