Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Quan điểm của C.Mác về biến đổi xã hội và vận dụng trong nghiên cứu về biến đổi xã hội ở Việt nam hiện nay
Thứ bảy, 27 Tháng 8 2022 12:43
10959 Lượt xem

Quan điểm của C.Mác về biến đổi xã hội và vận dụng trong nghiên cứu về biến đổi xã hội ở Việt nam hiện nay

(LLCT) - Nghiên cứu về biến đổi xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc dự báo xu hướng vận động, phát triển của xã hội, từ đó có những cơ sở trong xây dựng và hoạch định các chính sách xã hội phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Vận dụng phương pháp luận khoa học của C. Mác về biến đổi xã hội trong nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam hiện nay sẽ giúp nhận diện và dự báo xu hướng biến đổi của các vấn đề xã hội, góp phần xác định các chính sách can thiệp hợp lý, xây dựng xã hội phát triển bền vững.

Quá trình đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã tạo nên nhiều biến đổi lớn trong xã hội - Ảnh: tuyengiao.vn

C.Mác (1818 - 1883) là luật sư, nhà triết học, nhà kinh tế học và lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. C.Mác chưa bao giờ thừa nhận mình là nhà xã hội học, tuy nhiên ông đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực xã hội học. “C.Mác đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại một trong những tiếp cận lý thuyết bao quát và mạnh mẽ nhất”(1). Bởi những nghiên cứu của ông đều xuất phát từ con người, xã hội; mối quan hệ con người và xã hội để đạt mục tiêu cuối cùng là thiết lập một xã hội phát triển bền vững trên lập trường thế giới quan khoa học và cách mạng.

1. Quan điểm của C.Mác về biến đổi xã hội

Một là, xã hội và cơ sở của biến đổi xã hội

Theo C.Mác, xã hội được tạo nên từ những con người cụ thể: “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”(2). Con người và loài người xuất hiện thì đồng thời cũng xuất hiện các nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình. Những nhu cầu đó thúc đẩy con người hành động để thỏa mãn và đó chính là hành vi lịch sử đầu tiên của loài người: “...hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy”(3). Nhưng nhu cầu cũng không phải là cái gì bất biến mà luôn luôn nảy sinh trong cuộc sống, trong quan hệ và tương tác của những cá nhân con người. Nên khi những nhu cầu đầu tiên này được thỏa mãn, trước sự vận động của hoàn cảnh, ở cá nhân con người lại xuất hiện những nhu cầu mới “bản thân cái nhu cầu đầu tiên đã được thỏa mãn, hành động thỏa mãn và công cụ để thỏa mãn mà người ta có được - đưa tới những nhu cầu mới”(4).

Do đó, nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và luôn biến đổi, nhu cầu cũ được thỏa mãn thì sẽ có vô số nhu cầu mới xuất hiện. Những nhu cầu mới đó lại thúc đẩy con người hành động. Quá trình hành động đáp ứng nhu cầu của con người đã hình thành nên các quan hệ giữa người và người.

Tổng hợp những quan hệ đó trong quá trình đáp ứng nhu cầu của mình, hình thành nên xã hội: “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau”(5). Vậy có thể hiểu, xã hội là sản phẩm hành động của con người nhằm đáp ứng nhu cầu của mình trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Hành động lịch sử đầu tiên của con người và xã hội loài người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của mình là lao động sản xuất: “Hành động lịch sử đầu tiên của những cá nhân đó, hành động mà nhờ đó họ khác với loài vật, không phải là việc họ tư duy mà là việc họ bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết của họ”(6). Điều này cho thấy, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố đầu tiên và cơ bản nhất quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội, nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Thực tiễn biến đổi của xã hội loài người cho thấy, mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội trong các lĩnh vực như: chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật... đều hình thành và biến đổi trên cơ sở vận động của sản xuất vật chất. Điều này được C.Mác khẳng định: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp... tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”(7). Bởi thế, đối với những biến đổi đời sống xã hội, chỉ có thể đạt tới một sự giải thích có căn cứ nếu sự giải thích ấy được bắt nguồn từ nền sản xuất vật chất của xã hội.

Hai là, cơ cấu xã hội và quy luật biến đổi xã hội

C.Mác đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đã chỉ ra cơ cấu xã hội xuất phát từ sản xuất vật chất của con người: “Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định”(8) và biến đổi xã hội tuân theo quy luật vốn có 

Trong quan hệ sản xuất xã hội, khi xuất hiện sự đối lập giữa người lao động và tư liệu sản xuất, lúc đó trong xã hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội, qua đó sẽ có những biến đổi xã hội mang tính chất bước ngoặt. 

  của nó. Bởi khi nghiên cứu, khảo sát lịch sử xã hội loài người, C.Mác đã chỉ ra rằng, biến đổi xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn lịch sử của xã hội cụ thể là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là do quy luật khách quan, “là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên”(9).

Cơ cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể gồm các thành tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là quan hệ giao tiếp) và kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, C.Mác cũng chỉ rõ, mỗi thành tố của cơ cấu xã hội có vị trí, vai trò nhất định đối với sự biến đổi xã hội (sự biến đổi của hình thái kinh tế - xã hội). Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(10)

Lực lượng sản xuất có vai trò xét đến cùng quyết định sự biến đổi và phát triển của xã hội; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất vật chất, là quan hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội khác: “khi những tư liệu sản xuất vật chất, những lực lượng sản xuất mà thay đổi và phát triển thì những quan hệ xã hội trong đó những cá nhân sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất xã hội cũng thay đổi, biến đổi theo”(11)

Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội trong lịch sử; kiến trúc thượng tầng là bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội, có tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”(12).

Các thành tố cơ bản này có mối quan hệ biện chứng với nhau, biểu hiện ở hai quy luật cơ bản, tồn tại trong tất các các hình thái kinh tế - xã hội: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Sự vận động, biến đổi của hai quy luật này cũng đồng thời chỉ ra phương thức biến đổi xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi thời: “tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”(13).

Giải quyết mâu thuẫn bằng cách xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Theo đó, biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất diễn ra bằng việc thay thế hình thái kinh tế - xã hội mới.

Ba là, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử

Theo C.Mác, trong quá trình sản xuất ra đời sống của mình, con người dù muốn hay không cũng buộc phải thực hiện những quan hệ nhất định với nhau: “Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”(14), C.Mác gọi đây là quan hệ “song trùng” - quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện chủ yếu thông qua quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Chừng nào trong lịch sử xã hội loài người có sự tách rời giữa người lao động và tư liệu sản xuất, lúc bấy giờ xã hội xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đó là cơ sở trực tiếp hình thành nên giai cấp và đấu tranh giai cấp.  

Toàn bộ giá trị lý luận của C.Mác về vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp đã được ông khái quát trong thư gửi G.Vâyđơmâye (năm 1852), như sau: “1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; 2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản; 3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không giai cấp”(15).

Thực chất ở đây C.Mác chỉ ra rằng, trong lịch sử không phải lúc nào cũng tồn tại giai cấp và trong xã hội có giai cấp sẽ có đấu tranh giai cấp. Đồng thời, đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Nhưng chuyên chính vô sản cũng chỉ là bước quá độ nhằm mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ mọi giai cấp, xóa bỏ hoàn toàn chế độ người bóc lột người trong lịch sử nhân loại.

Trong xã hội hiện đại, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là nhằm giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, qua đó xóa bỏ hoàn toàn chế độ người bóc lột người. Do vậy, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp nhất trong lịch sử. Thông qua cách mạng vô sản thắng lợi sẽ ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa. Đây là biến đổi xã hội có tính chất bước ngoặt trong lịch sử. Theo đó, đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội là một trong những động lực góp phần đẩy nhanh biến đổi xã hội.

Điều này đã được C.Mác chứng minh qua khảo sát thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX: “Từ khi các công xã nguyên thủy tan rã, cuộc đấu tranh giữa những giai cấp cấu thành mỗi xã hội, luôn luôn là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển lịch sử. Cuộc đấu tranh đó chỉ sẽ mất đi khi bản thân các giai cấp không còn nữa, nghĩa là sau khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi”(16) và “Chỉ có ai cố tình nhắm mắt lại mới không thấy rằng động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại... chính là cuộc đấu tranh của ba giai cấp lớn đó, và những xung đột về lợi ích của họ”(17).

Như vậy, C.Mác đi từ sản xuất vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người, tức là từ lĩnh vực kinh tế vật chất để giải thích các hiện tượng và các quá trình của đời sống xã hội cũng như những biến đổi xã hội tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra, từ tất cả các mối quan hệ xã hội, C.Mác làm nổi bật quan hệ sản xuất, coi đó là quan hệ cơ bản, ban đầu quyết định mọi quan hệ khác.

Trong quan hệ sản xuất xã hội, khi xuất hiện sự đối lập giữa người lao động và tư liệu sản xuất, lúc đó trong xã hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội, qua đó sẽ có những biến đổi xã hội mang tính chất bước ngoặt.

Vì vậy, đấu tranh giai cấp cũng là một trong những phương thức và động lực biến đổi xã hội. C.Mác cũng không dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội, về cơ cấu xã hội nói chung, mà đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó khái quát lên tính quy luật biến đổi của tất cả các xã hội khác.

2. Vận dụng quan điểm của C.Mác trong nghiên cứu về biến đổi xã hội ở Việt Nam

Quá trình đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã tạo nên nhiều biến đổi lớn trong xã hội. Đó là sự biến đổi của các thành phần kinh tế và cơ chế quản lý, từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; biến đổi từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; văn hóa, lối sống đề cao phong tục tập quán làm chuẩn mực sang đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật; từ một xã hội khép kín đang dần trở thành xã hội hội nhập quốc tế sâu rộng... Sự biến đổi này đã làm thay đổi căn bản mọi mặt của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, xã hội Việt Nam hiện nay cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết như: “Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội...”(18)...  làm cản trở mục tiêu biến đổi xã hội nhằm phát triển xã hội bền vững.

Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định cần: “chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được để bị động, bất ngờ”(19), trên cơ sở đó “dự báo đúng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới”(20), nhằm xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước.

Để nghiên cứu về biến đổi xã hội cũng như có cơ sở dự báo xu hướng biến đổi xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay, cần vận dụng các quan điểm của C.Mác về biến đổi xã hội.

Một là, nghiên cứu biến đổi xã hội Việt Nam hiện nay cần xuất phát từ nền tảng sản xuất vật chất, tức là từ nền kinh tế nhiều thành phần và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với nền tảng kinh tế này, sự biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, cần thấy rằng, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững sẽ tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho những biến đổi tích cực của xã hội. Xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý có khả năng kích thích tính tích cực của người lao động, điều hòa các quan hệ lợi ích tạo ra sự biến đổi xã hội tiến bộ. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế bất hợp lý sẽ dẫn đến những biến đổi xã hội tiêu cực. Do vậy, quá trình xây dựng, phát triển kinh tế và việc tạo sự biến đổi xã hội hợp lý phải gắn liền với nhau.

Việt Nam thời gian qua đã có nhiều thay đổi, từ nền kinh tế một thành phần là chủ yếu, phi thị trường, từ một cơ cấu xã hội - giai cấp đơn giản, “thuần nhất” chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đa dạng thành phần kinh tế và bình đẳng trong cơ hội phát triển. Điều đó đã hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp mới gồm nhiều giai cấp, tầng lớp. Đáng chú ý là kinh tế tư nhân từ chỗ bị xóa bỏ, nay trở thành một thành phần kinh tế lớn mạnh, được khuyến khích phát triển, không giới hạn về ngành nghề, quy mô, tốc độ và là động lực quan trọng của nền kinh tế. Vì vậy, trong xã hội xuất hiện các tầng lớp doanh nhân mới là tất yếu khách quan. Do đó, khi nghiên cứu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay cần nắm vững xu hướng biến đổi của các thành phần, tầng lớp trong xã hội để có những can thiệp phù hợp.

Cùng với hình thành nền kinh tế nhiều thành phần trong thực tiễn, Đảng ta chủ trương thực hiện đa hình thức sở hữu. Việc tồn tại của các thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Song sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu cũng ẩn chứa cuộc đấu tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và tư tưởng. Vì vậy, nghiên cứu biến đổi xã hội cần lưu ý sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp, qua đó có chủ trương, chính sách điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp trong xã hội, tránh xung đột giữa các giai tầng, nhằm mục tiêu “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(21).

C.Mác chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất là quan hệ trung tâm, chi phối những quan hệ khác trong quá trình biến đổi xã hội. Theo đó, để sự biến đổi xã hội theo hướng tiến bộ, ở Việt Nam hiện nay cần “Hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”(22). Chỉ trên cơ sở hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN (dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu), mới hình thành cơ cấu xã hội phát triển hài hòa cấu trúc - chức năng của các thành tố trong xã hội, con người mới được giải phóng, thoát khỏi tha hóa trong lao động, qua đó tiến bộ và công bằng đích thực mới được bảo đảm và biến đổi xã hội mới tạo ra sự phát triển xã hội mang tính bền vững.

Hai là, nghiên cứu biến đổi xã hội cần đứng vững trên lập trường thế giới quan của giai cấp công nhân và phương pháp nhận thức khoa học. Việt Nam qua 35 năm đổi mới đã thu được nhiều thành tựu nhưng bên cạnh đó, sự vận động, biến đổi xã hội vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Đồng thời, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế... đang làm cho “công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”(23). Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cơ hội có điều kiện phát triển... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch đang tìm cách chống phá hòng xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cuối cùng là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Do vậy, mọi biến đổi xã hội Việt Nam cần phải được xem xét và giải quyết trên lập trường thế giới quan của giai cấp công nhân và phương pháp nhận thức khoa học. Đồng thời, các chủ trương, chính sách về biến đổi xã hội phải xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu đổi mới của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Ba là, nghiên cứu biến đổi xã hội cần quan tâm toàn diện tới tất cả các tầng lớp xã hội, đặc biệt là nhóm yếu thế trong xã hội để tạo cơ hội công bằng cho mọi thành phần trong xã hội. Điều đó cần được thực hiện trong thực tiễn thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội theo định hướng tạo bình đẳng cho tất cả các nhóm xã hội trong tiếp cận và sử dụng tư liệu sản xuất về giáo dục, y tế, giao thông, thông tin liên lạc...

_________________

Ngày nhận bài: 17-3-2022; Ngày bình duyệt: 29-3-2022; Ngày duyệt đăng: 15-7-2022.

 

(1) Tony Bilton (chủ biên): Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.56.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.657.

(3), (4), (6), (8), (13) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.40, 40, 29, 36, 107.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.46, phần I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.355.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.500.

(9), (10) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.21, 269.

(11), (14) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.553, 552.

(12) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.15.

(15) C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.28, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.662.

(16) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.708-709.

(17) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.439.

(18), (19), (20), (21), (22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.85, 29, 148, 165-166, 39.

(23) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr.30.

PGS, TS LÊ THỊ THANH HÀ

Viện Xã hội học và Phát triển,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền