Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch và chủ nghĩa cơ hội - Ý nghĩa với giai đoạn hiện nay
Thứ năm, 22 Tháng 9 2022 11:01
9748 Lượt xem

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch và chủ nghĩa cơ hội - Ý nghĩa với giai đoạn hiện nay

(LLCT) - C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là người sáng tạo ra học thuyết mang tên mình và là tấm gương sáng, thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch và chủ nghĩa cơ hội. Bài viết khái quát tư tưởng và quá trình đấu tranh đó của các ông cũng như chỉ ra ý nghĩa với cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã soạn thảo “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - Ảnh: internet

1. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) soạn thảo, Liên đoàn những người Cộng sản thông qua (2-1848), đã khẳng định Đảng Cộng sản là người lãnh đạo, đại biểu cho lợi ích của giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động, không phân biệt nghề nghiệp, địa phương, dân tộc và mang tính quốc tế. Đảng lãnh đạo các lực lượng trên, sử dụng bạo lực cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của mình, cải tạo xã hội cũ, xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Tuyên ngôn công khai đó làm cho các thế lực bảo thủ và phản động “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma cộng sản” đang ám ảnh họ. Liên minh ấy gồm các trào lưu tư tưởng phong kiến, phủ nhận đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, muốn duy trì chế độ sản xuất và sở hữu nhỏ; các trào lưu tư tưởng tư sản bảo thủ, muốn duy trì, bào chữa cho chế độ TBCN.

Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ, khi đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt thì đấu tranh tư tưởng chống trào lưu tư tưởng phản động, bảo thủ càng phải thường xuyên, kiên quyết. Khi chống các trào lưu ấy, những người cộng sản cần luôn giữ vững tính độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững mục tiêu chiến lư­ợc của mình. Họ giáo dục cho công nhân ý thức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì biết sử dụng những điều kiện chính trị và xã hội do giai cấp tư sản tạo ra nh­ư là vũ khí chống lại giai cấp đó.

C.Mác, Ph.Ăngghen đã sáng lập và lãnh đạo Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I), đặt nền tảng tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời, hoạt động của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Cùng với việc khởi thảo những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của phong trào công nhân quốc tế, C.Mác, Ph.Ăngghen và những người mácxít thường xuyên đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng phản động và chủ nghĩa cơ hội tiểu tư sản, vô chính phủ trong suốt 12 năm tồn tại của Quốc tế I (1864-1876). Tiêu biểu là cuộc đấu tranh chống phái Pruđông. Phái này chủ trương ủng hộ CNTB, duy trì vĩnh viễn chế độ tư hữu, phủ nhận đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân và mọi hình thức nhà nước, kể cả chuyên chính vô sản.

Hơn thế nữa, hai ông đã lãnh đạo Quốc tế I đấu tranh chống tư tưởng và lực lượng cơ hội trong công đoàn Anh; chống chủ nghĩa Lát xan phủ nhận tổ chức công đoàn, phủ nhận liên minh công nông, chủ trương liên minh với tư sản; chống sách lược vô chính phủ của phái Bacunin đòi xóa bỏ mọi hình thức chính quyền, kể cả chuyên chính vô sản, v.v..

Cuối những năm 80 thế kỷ XIX, CNTB phát triển tương đối hòa bình, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, các đảng XHCN thành lập ở nhiều nước, yêu cầu đòi hỏi phải thành lập Quốc tế mới. Tháng 7-1889 đã diễn ra hai Đại hội thành lập Quốc tế II. Một đại hội do Ph.Ăngghen triệu tập gồm 395 đại biểu từ 20 nước trên thế giới tham dự với khẩu hiệu trung tâm là “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” và một đại hội khác gồm đại biểu công đoàn Pari (Pháp) cùng các chi hội công liên Anh theo chủ nghĩa cơ hội, cải lương, xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Hai đại hội khác nhau đã cho thấy tính chất phức tạp về tư tưởng của phong trào công nhân quốc tế.

Sau khi C.Mác mất, Ph.Ăngghen lãnh đạo hai đại hội đầu của Quốc tế II. Ông đã liên tục đấu tranh với chủ nghĩa quân phiệt, CNTB và nhấn mạnh chỉ có xây dựng chế độ XHCN mới thủ tiêu tận gốc nạn người bóc lột người, mới xóa bỏ được nguồn gốc chiến tranh, xóa bỏ được chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến. Giai cấp vô sản phải sử dụng tất cả các phương tiện tuyên truyền và cổ động đòi thi hành bảo hộ lao động, chống ngân sách chiến tranh, giảm chi phí cho quân đội thường trực...

Ph.Ăngghen nhắc lại luận điểm có tính nguyên tắc của C.Mác: chỉ có hoạt động chính trị mới là phương tiện để đi đến giải phóng giai cấp vô sản. Giai cấp công nhân các nước phải vận dụng chủ nghĩa Mác, lựa chọn hình thức đấu tranh chính trị và kinh tế - xã hội để tập hợp lực lượng và phát triển phong trào của mình. Nhưng khi vận dụng, cần coi “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(1).

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trung tâm cách mạng thế giới từ Đức chuyển sang Nga. Nước Nga đế quốc phong kiến quân chủ trở thành mắt xích yếu nhất của hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Sau khi Ph.Ăngghen mất, các lãnh tụ Quốc tế II phân chia thành ba phái: phái hữu, phái giữa và phái tả. Phái hữu do Bécxtanh đứng đầu, phản đối tất cả những vấn đề cơ bản của cách mạng, kể cả quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng dân chủ tư sản. Các lãnh tụ Đảng Xã hội Đức, Pháp và Công đảng Anh đều ủng hộ chiến tranh của đế quốc nước mình. Phái giữa do Cauxky đứng đầu là đại biểu của chủ nghĩa cơ hội, khoác áo mácxít để chống chủ nghĩa Mác, tìm mọi biện pháp thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi của giai cấp vô sản, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù giấu mặt rất nguy hiểm của phong trào công nhân.

Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ tháng 7-1914 là bằng chứng vạch trần quan điểm phản bội của các lãnh tụ cơ hội - xét lại Quốc tế II và dẫn nó đến phá sản hoàn toàn trên các phương diện tư tưởng, chính trị và tổ chức.

Chỉ có phái tả là phái cách mạng do V.I.Lênin đứng đầu ngày càng mạnh lên. Phái này vừa trung thành, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, vừa kiên quyết chống tư tưởng thù địch và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội - xét lại.

2. Đầu thế kỷ XX, nước Nga phong kiến trở thành mắt xích yếu nhất của hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Các mâu thuẫn và đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản, giữa nông dân và địa chủ, đấu tranh chống áp bức dân tộc diễn ra đồng thời và rất gay gắt. Ngoài các lực lượng thù địch và cơ hội trong Quốc tế II, nước Nga tồn tại nhiều lực lượng phản động, cơ hội chủ nghĩa. Phái Dân túy chủ trương dựa vào nông dân để lật đổ Nga hoàng bằng phương pháp khủng bố; Đảng Liên hiệp Nhân dân Nga (Trăm đen) đại biểu cho lợi ích của giai cấp địa chủ quý tộc; Đảng Tháng Mười đại diện cho lợi ích của đại địa chủ và đại tư sản, công khai phản cách mạng, ủng hộ Nga hoàng. Trong Đảng Dân chủ - xã hội Nga có phái Kinh tế đề cao tính tự phát của giai cấp công nhân.

Trong bối cảnh đó, V.I.Lênin (1870-1924) đã viết tác phẩm Làm gì? (năm 1902) kêu gọi đoàn kết các tổ chức mácxít, thành lập Đảng kiểu mới ở Nga. Tuy nhiên, tại Đại hội thành lập Đảng (tháng 8-1903) đã xuất hiện mâu thuẫn về quan điểm soạn thảo Cương lĩnh và Điều lệ Đảng giữa phái cơ hội chủ nghĩa (Mensêvích-M) chiếm thiểu số và những người cách mạng theo V.I.Lênin, chiếm đa số (Bônsêvích-B). Trong bối cảnh ấy, V.I.Lênin viết tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi (năm 1904), Hai sách lược của Đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ (năm 1905) trình bày những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, nêu sách lược của Đảng (B) Nga, về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, về đấu tranh chống những quan điểm thù địch và chủ nghĩa cơ hội (M)... V.I.Lênin đã lãnh đạo Đảng (B) Nga, thực hiện khẩu hiệu ‘’Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng’’, lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 “thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất”(2), tạo thuận lợi, thúc đẩy thành lập tổ chức quốc tế mới.

Tháng 3-1919, đại biểu của 19 đảng và 15 tổ chức cách mạng trên thế giới đã họp tại Mátxcơva thành lập Quốc tế III, lấy tên là Quốc tế Cộng sản. Từ đó, chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi hơn vào phong trào công nhân thế giới và phong trào yêu nước các nước thuộc địa, phụ thuộc, dẫn đến hàng chục Đảng Cộng sản ra đời và tham gia vào Quốc tế Cộng sản. Đại hội II Quốc tế Cộng sản (tháng 8-1920) thông qua 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản; quy định mỗi Đảng Cộng sản ở mỗi nước là chi bộ cơ sở, Đảng kỳ là lá cờ đỏ búa liềm, Đảng ca là bài Quốc tế ca...

Trong nhiều tác phẩm của mình, V.I.Lênin đã khẳng định tính tất yếu và nội dung của cách mạng XHCN; về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản; về đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (năm 1920)...

Những luận điểm chủ yếu của Người chống quan điểm phản động và chủ nghĩa cơ hội gồm: Sự nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội vì nó khoác áo chủ nghĩa Mác, không công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng xuyên tạc, vứt bỏ “linh hồn” cũng như những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác, nhằm “đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội”(3). Biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội khác nhau ở từng quốc gia, nhưng giống nhau về nội dung, bản chất chính trị - xã hội, ở tính không kiên quyết, vô nguyên tắc, không rõ ràng, lờ mờ, quanh co, do dự, thiếu kiên định, dao động về chính trị, “dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”(4).

Bản chất của chủ nghĩa cơ hội là: ‘’Sự lãng quên những mục tiêu vĩ đại, cơ bản vì những lợi ích nhất thời trước mắt, sự săn đuổi những thắng lợi chốc lát cuộc đấu tranh vì những cái đó không tính đến các hậu quả về sau, việc đem phong trào tương lai làm vật hy sinh cho hiện tại’’(5).

Chủ nghĩa cơ hội “hữu” hay “tả” khuynh đều rất tinh vi và xảo quyệt, nguy hiểm không kém gì bọn phản động. Khi chủ nghĩa Mác phát triển, sẽ có một bộ phận lợi dụng, mang danh chủ nghĩa Mác để phê bình, xét lại nó. “Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là một hình loại mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi”(6).

Vì vậy, “Điều rất cần thiết hiện nay là, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân”(7).

V.I.Lênin cho rằng, hệ tư tưởng khoa học không thể tự phát sinh trong phong trào tự phát của công nhân mà từ lý luận khoa học. “Học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát sinh ra từ các lý luận triết học, lịch sử, kinh tế, do những người có học thức trong các giai cấp hữu sản, những trí thức, xây dựng nên”(8). Nhiệm vụ của những người cách mạng là phải nâng cao trình độ công nhân lên trình độ những người cách mạng. “Đã không có một hệ tư tưởng độc lập, do chính ngay quần chúng công nhân xây dựng nên trong quá trình phong trào của họ, thì vấn đề này đặt ra chỉ là... hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng XHCN. Không có hệ tư tưởng trung gian... Vì vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”(9).

Toàn thể đảng viên cần nâng cao nhận thức, cảnh giác trước các âm mưu bôi nhọ Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng và giữa Đảng với quần chúng; phải kiên quyết “bảo vệ năng lực công tác của đảng ta, bảo vệ các lãnh tụ của đảng”(10); kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc là quy luật phát triển chủ nghĩa Mác và xây dựng Đảng Cộng sản. Quan điểm này là “hòn đá thử vàng” để phân biệt người mácxít và những người giả danh mácxít.

Theo V.I.Lênin, muốn bảo vệ chủ nghĩa Mác, Đảng phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. Chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. Nếu người cách mạng ít học, hoặc chưa học tập lý luận, không chú ý đến lý luận mà đã tham gia phong trào cách mạng thì chẳng khác nào một người nhìn thấy đám ma mà lại chúc có nhiều đám ma hơn. Bởi vậy “Chớ có buôn bán nguyên tắc, chớ có “nhân nhượng”về lý luận. Tư tưởng của Mác là như thế, thế mà trong chúng ta, còn có những người đã nhân danh Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý luận!”(11).

Trong những tác phẩm cuối cùng được gọi là Di huấn, V.I.Lênin đã đề cập nhiều vấn đề lớn, trong đó có vấn đề thanh đảng. V.I.Lênin chỉ ra rằng, khi cách mạng thắng lợi không thể tránh khỏi những phần tư nguy hại, những bọn phiêu lưu chui vào Đảng. Nhưng Đảng cầm quyền phải biết làm cho hàng ngũ mình trong sạch bằng cách đuổi bọn thoái hóa, biến chất, cơ hội, thù địch ra ngoài để làm cho lực lượng và uy tín của Đảng tăng lên.

V.I.Lênin yêu cầu: trước hết, Đảng cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực sự là đội tiên phong được quần chúng tín nhiệm và ủng hộ; để đội ngũ đảng thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cần đoàn kết trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương. Người đề nghị tăng số lượng ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; trong bộ máy Nhà nước phải mở rộng dân chủ hơn nữa, “thà ít mà tốt”, phải đề phòng và chống quan liêu. Phải dựa vào kinh nghiệm và ý kiến của quần chúng. Phải cải tổ căn bản công tác tổ chức kiểm tra của Đảng, Nhà nước; cần thành lập Ban Kiểm tra Trung ương; phải huấn luyện nhiều cán bộ của Đảng biết làm công tác của Trung ương, “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”(12).

Phải kiên quyết loại trừ ra khỏi Đảng bọn phiêu lưu, bọn khiêu khích, những bè phái chống Đảng như Mensêvích, Tơrốtkít, những người không đủ tiêu chuẩn, kể cả những đảng viên quan liêu, thoái hóa, không trung thực, nhu nhược, xu nịnh, luồn lọt, bọn tham ô, ăn cắp, những người ở ban này, phòng nọ mà không làm, không biết làm một công tác thực tiễn nào...

3. Sau khi V.I.Lênin mất, Quốc tế Cộng sản (1919-1943) đã có công lao to lớn trong việc bảo vệ, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh chống mọi quan điểm thù địch, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội “tả” và “hữu” khuynh.

Tuyên bố chung của Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân (1960) chỉ rõ các trào lưu tư tưởng thù địch và “Chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh trong lý luận cũng như trong thực tiễn, đã phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, làm tê liệt ý chí cách mạng của giai cấp công nhân, tước đoạt vũ khí và làm tan rã tinh thần của công nhân, của quần chúng lao động... Chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái làm cho các đảng cách mạng mất năng lực phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, cô lập những người cộng sản khỏi các tầng lớp lao động đông đảo dẫn họ đến tình trạng chờ đợi một cách tiêu cực, hoặc hoạt động tả khuynh phiêu lưu trong đấu tranh cách mạng”(13).

Hội nghị kêu gọi các đảng cộng sản và công nhân trên toàn thế giới lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam xác định mục tiêu, con đường và phương pháp vận dụng sáng tạo nó và kiên quyết đấu tranh bảo vệ nó chống mọi trào lưu tư tưởng thù địch và chủ nghĩa cơ hội, giáo điều và biệt phái.

Qua các giai đoạn lịch sử đến nay, các trào lưu chống chủ nghĩa Mác - Lênin của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa cơ hội, xét lại càng quyết liệt, tinh vi hơn. Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch được dịp quyết liệt xuyên tạc, công kích, coi đây là bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ cho rằng, trong nền “văn minh hậu công nghiệp”, CNTB không “giẫy chết” mà còn có khả năng phát triển; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không theo kịp sự phát triển của kinh tế tri thức, không thể lãnh đạo “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”. Rằng sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản đến nay chưa thành công ở đâu, nó chỉ là lý tưởng, không thực hiện được trong thực tiễn; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm cho trách nhiệm, động lực phát triển kinh tế không cao; chế độ “đảng trị” dẫn đến các tiêu cực trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền là thành tựu tiêu biểu của CNTB đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; chúng kêu gào cần phải “đa nguyên”, “đa đảng”, “phi chính trị hóa” quân đội và công an...v.v.

Trước các luận điệu nêu trên, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin- nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản đặt ra ngày càng bức thiết, thường xuyên và khoa học hơn. Cần khẳng định một cách khoa học: chủ nghĩa Mác - Lênin là kết tinh những giá trị đỉnh cao của tri thức nhân loại. Đó là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong các bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.

Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin là ở nguồn gốc bền vững từ cơ sở kinh tế-xã hội của nền công nghiệp hiện đại, do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những thiên tài đã kế thừa các đỉnh cao tư tưởng lý luận và khoa học của nhân loại.

Giá trị khoa học to lớn, bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở chỗ là học thuyết duy nhất nêu rõ mục tiêu cao đẹp, con đường, lực lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang tính chất cách mạng, không chỉ giải thích thế giới, mà còn cải tạo và xây dựng xã hội mới tốt đẹp. Đây là học thuyết mở, sống động, không ngừng tự phê phán, tự đổi mới, bổ sung và phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại. “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(14).

Chủ nghĩa Mác - Lênin được các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới đều coi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động trong hoạch định Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo cách mạng; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân hiện đại, là hệ tư tưởng chủ đạo trong mọi hoạt động tinh thần của xã hội; là định hướng tư duy chủ đạo của mỗi người trong cuộc đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng CNXH.

Với mục tiêu cao đẹp, với bản chất khoa học và cách mạng, phương pháp năng động và linh hoạt, chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ lỗi thời mà có sức sống năng động, bền vững trong mọi thời đại.

Những người cộng sản không được coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, coi nó là nền móng khoa học để vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển hơn nữa. V.I.Lênin khẳng định “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt”(15).

4. Trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(16). Người đã chỉ ra đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2-1930) là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người nói, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước, là “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”(17).

Bởi vậy, “Đảng không hề lơ là việc đấu tranh chống những tư tưởng phản động, tư tưởng tư sản cải lương đầu hàng và thỏa hiệp với đế quốc; chống tư tưởng tiểu tư sản bấp bênh dao động, chống những biểu hiện chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả khuynh; ra sức đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin”(18). Nhưng bảo vệ phải gắn với học tập, vận dụng thực tiễn, “Học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”(19).

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(20). Tư tưởng Hồ Chí Minh là là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

Bộ Chính trị từ khóa IX đến khóa XIII đều ban hành các chỉ thị với các chủ đề khác nhau về nghiên cứu, tuyên truyền, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.

Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW (10-2018) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Đảng chủ trương thường xuyên tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(21)... Đó là những minh chứng tiêu biểu về sự kiên trì bảo vệ, khẳng định sức sống mãnh liệt và bền vững của chủ nghĩa Mác- Lênin; sự quyết tâm học tập tư tưởng và tấm gương của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch và chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

_________________

Ngày nhận bài: 7-7-2022; Ngày bình duyệt: 12-7-2022; Ngày duyệt đăng: 22-8-2022.  

 

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia, 1997, tr.796.

(2), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.300, 289.

(3), (4), (5) (6), (8), (9), (11), (12) V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.6, tr.11, 239, 86, 10-11, 38, 49-50, 30, 162.

(7) V.I Lênin: Toàn tập, Sđd, t.26, tr.327.

(10) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.123.

(13) Văn kiện Hội nghị Đại biểu các đảng cộng sản và công nhân (11-1960), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.76.

(14) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.20.

(15) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

(17), (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.96, 611.

(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.489.

(20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88

(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.181.

PGS, TS PHẠM XUÂN MỸ

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền