Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới
Thứ hai, 14 Tháng 11 2022 17:39
10089 Lượt xem

Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới

(LLCT) -  Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ khách quan trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế. Giải quyết tốt mối quan hệ này là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 10-2022 - Ảnh: vietnamplus.vn

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu nắm vững và xử lý tốt 10 mối quan hệ lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, trong đó có mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế(1). Đây là một trong những mối quan hệ lớn “phản ánh quy luật đổi mới và phát triển” thể hiện sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời với hội nhập quốc tế. Đây là kết quả phát triển tư duy lý luận của Đảng. 

Để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cần tiếp tục được nghiên cứu làm rõ hơn về mặt lý luận để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

1. Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam

Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, Đảng ta xác định, “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”(2); kế thừa và phát triển ngoại giao truyền thống của ông cha, đặc biệt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong đó, tư tưởng cốt lõi là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; độc lập, tự chủ gắn với CNXH; hội nhập quốc tế luôn gắn liền với độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa; phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, ứng dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hội nhập và hợp tác quốc tế, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thể chế nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là xác định và đứng trên các nguyên tắc; trên cơ sở các nguyên tắc phải có ứng xử linh hoạt. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cái “bất biến” chính là lợi ích quốc gia - dân tộc, mục tiêu cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Cho dù tình hình quốc tế biến đổi phức tạp, khó lường thì mục tiêu đó cũng không hề lung lay. “Ứng vạn biến” là đòi hỏi sự vận dụng phải linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của tình hình trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, có nghĩa là tùy từng thời thế, đối tượng mà có cách ứng phó, giải quyết linh hoạt, hiệu quả, để giành và giữ cho được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ và CNXH.

Trên cơ sở xem xét các yếu tố, Đại hội XIII nhận định về tình hình thế giới từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”(3).

Cụ thể, bối cảnh thế giới xuất hiện nhiều thách thức mới cần quan tâm giải quyết: 

Thứ nhất, đại dịch Covid-19 đã cơ bản được kiểm soát tại hầu hết các nước trên thế giới. Đây là đại dịch lớn nhất xảy ra trong vài trăm năm trở lại đây. Đại dịch đã tạo ra hệ lụy vô cùng nghiêm trọng về an sinh, phát triển toàn cầu, đặt thế giới trước khủng hoảng, suy thoái không chỉ về kinh tế mà cả về xã hội. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đến nay vẫn cảnh báo dịch bệnh chưa đến điểm kết thúc do còn tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện các biến thể mới; tình hình dịch bệnh tại một số nước vẫn diễn biến phức tạp. 

Bên cạnh đó, các vấn đề an ninh phi truyền thống khác cũng có nhiều diễn biến khó lường, đe dọa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, đòi hỏi có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia và nguồn lực lớn hơn để giải quyết.

Thứ hai, xung đột Nga - Ucraina là biến cố xảy ra ngoài dự báo, được coi là sự kiện chính trị lớn nhất từ sau Chiến tranh Lạnh. Sự kiện này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, trật tự an ninh, không chỉ ở châu Âu mà còn làm thay đổi cục diện thế giới, làm lung lay một số nền tảng quan hệ quốc tế, khiến quan hệ giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ, phương Tây với Nga, trở lại giai đoạn đối đầu căng thẳng. 

Các nước lớn tiếp tục xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh, giành ảnh hưởng, trong đó cạnh tranh có phần nổi trội hơn. Tuy nhiên, các nước vẫn duy trì đối thoại nhằm kiềm chế mâu thuẫn, tránh đối đầu trực tiếp.

Những điều chỉnh chính sách của các nước xung quanh vấn đề Nga - Ucraina có nguy cơ dẫn thế giới đến một cuộc chiến tranh quy mô lớn. Tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế giữa các nước lớn cũng như các nước vừa và nhỏ trở nên phức tạp hơn. Các nước vừa và nhỏ chịu sức ép mạnh từ các nước lớn trong các vấn đề quốc tế. Nhưng nhìn chung, vẫn duy trì chính sách cân bằng, linh hoạt, đa dạng hóa, đa phương hóa, coi trọng hợp tác đa phương, tránh chọn bên nhằm bảo vệ tối ưu độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc.

Thứ ba, các tổ chức quốc tế, thể chế đa phương, với trung tâm là hệ thống Liên hợp quốc chịu tác động sâu sắc từ cạnh tranh giữa các nước lớn, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - Ucraina. Nhưng ở góc độ khác, hệ thống các tổ chức quốc tế cũng chứng tỏ được vai trò thúc đẩy hòa bình, an ninh quốc tế, hỗ trợ phát triển, nhất là góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề toàn cầu cấp bách hiện nay như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo và các vấn đề an ninh phi truyền thống. 

Các tổ chức quốc tế và khu vực, các diễn đàn đa phương lớn, các cơ chế hợp tác tiểu vùng... đang nỗ lực cải cách, điều chỉnh, kiến tạo những hình thức liên kết đa phương mới hỗ trợ cho các nước bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế đầy biến động.

Thứ tư, dưới tác động tổng thể của nhiều nhân tố phức tạp, nhất là xung đột tại Ucraina, đà phục hồi của kinh tế thế giới đang có xu hướng chậm lại. Tình hình kinh tế thế giới hiện bấp bênh và tiềm ẩn nhiều rủi ro, thậm chí đứng trước nguy cơ khủng hoảng toàn diện, suy thoái toàn cầu, kéo theo đó là những hệ lụy nghiêm trọng như gây xáo trộn về kinh tế, mất ổn định về xã hội của các quốc gia.

Thứ năm, trung tâm thịnh vượng toàn cầu sẽ tiếp tục xu hướng dịch chuyển từ Tây sang Đông với vai trò dẫn dắt ngày càng lớn của Trung Quốc và triển vọng phát triển hàng đầu của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 

Tỷ trọng của các nền kinh tế phương Tây có xu hướng giảm dần, tỷ trọng của các nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ ngày một tăng. Đông Nam Á sẽ trở thành điểm đến ưa thích của các dòng vốn FDI khi các công ty đa quốc gia tái cân bằng chuỗi cung ứng để đa dạng hóa thị trường, tránh rủi ro địa chính trị và tận dụng tối đa nguồn lao động giá rẻ tại khu vực. 

ASEAN hiện là nền kinh tế đông dân thứ ba thế giới và được dự báo sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Mỹ, EU) vào năm 2030. 

Tại châu Á - Thái Bình Dương, tập hợp lực lượng sẽ tiếp tục phân hóa mạnh theo trục Mỹ - Trung, có khả năng sẽ buộc các quốc gia trong khu vực vào thế chọn phe, do đây là khu vực cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung diễn ra quyết liệt nhất. 

Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tại khu vực, nhất là việc tập hợp lực lượng cùng việc triển khai chiến lược của cả Mỹ và Trung Quốc tại đây đã và đang tạo ra những thách thức mới đối với độc lập, tự chủ của các quốc gia vừa và nhỏ. Ví dụ: bất ổn nội tại do tranh giành quyền lực giữa các phe phái, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo ở một số quốc gia như Mianma, Thái Lan, Inđônêxia, tiếp tục diễn biến phức tạp; một số nước Trung Á như Kazakhstan; Uzbekistan... xuất hiện biểu tình, nguy cơ bất ổn về chính trị, hay Sri Lanka ở Nam Á vỡ nợ... Tình hình thời gian tới tuy có nhiều diễn biến phức tạp nhưng cơ bản vẫn trong tầm kiểm soát vì các bên đều mong muốn duy trì hòa bình, ổn định, các bước đi nóng vội, phiêu lưu sẽ gây ra nhiều rủi ro khó lường.

Nhìn chung, những diễn biến phức tạp, nhanh chóng và khó lường của tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục mang lại cho Việt Nam cả cơ hội và thách thức đan xen, trong đó thách thức là lớn hơn. 

Những nguy cơ suy thoái, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao... cả ngắn và trung hạn là những khó khăn, thách thức đã tác động đến việc bảo đảm mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tình hình Biển Đông và các vấn đề an ninh khu vực, các vấn đề an ninh phi truyền thống như đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước... đặt ra nhiều thách thức đối với môi trường an ninh và phát triển của nước ta. 

Bên cạnh khó khăn, Việt Nam cũng luôn có những cơ hội và thuận lợi cơ bản như: hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ, sự dịch chuyển nguồn vốn và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam… Đó tiếp tục là những nhân tố góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, khôi phục đà tăng trưởng, tạo thế và lực để Việt Nam xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

2. Một số phương hướng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong bối cảnh quốc tế mới

Trước hết, bối cảnh quốc tế hiện nay đến năm 2030 đòi hỏi chúng ta phải rà soát một cách căn bản trên cơ sở lý luận về độc lập, tự chủ, đánh giá kỹ lưỡng các bài học thực tiễn của Việt Nam cũng như thế giới về xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, đưa ra những dự báo chính xác về các xu hướng, cũng như tác động của thế giới đối với Việt Nam. Từ đó, đề xuất những điều chỉnh, bổ sung cần thiết để thực hiện thắng lợi đường lối độc lập, tự chủ, không ngừng nâng cao vị thế và sức mạnh quốc gia, đưa đất nước phát triển bền vững. Theo đó: Độc lập, tự chủ là khả năng của quốc gia trong việc bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và thực hiện quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị, con đường, mô hình phát triển, về các chính sách đối nội, đối ngoại của mình, không bị sự thống trị, áp đặt, lệ thuộc, chi phối, thao túng từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v.. của đất nước. 

Tuy vậy, nội hàm của độc lập, tự chủ không phải là bất biến, không thay đổi. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, độc lập, tự chủ mang ý nghĩa tương đối, lại được đặt trong bối cảnh các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau về mọi mặt trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập. Trong bối cảnh đó, không tránh khỏi việc quốc gia chịu tác động tiêu cực bởi những biến động, khủng hoảng quốc tế, chịu sức ép, thậm chí là sự can thiệp ở mức độ nào đó từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không thể có và không thể giữ được độc lập, tự chủ khi hội nhập quốc tế, hay muốn giữ độc lập, tự chủ thì không nên hội nhập quốc tế sâu rộng. Quốc gia chịu tác động, phụ thuộc như thế nào, ở mức độ nào tùy thuộc vào năng lực tự chủ, tự cường, sức chống chịu của quốc gia và sự lựa chọn chính sách, tiến trình, bước đi, sân chơi của quốc gia đó trong tiến trình hội nhập.

Để bảo đảm độc lập, tự chủ thì cần tránh dựa dẫm, lệ thuộc vào bất kỳ đối tác, thị trường cụ thể nào trên bất cứ lĩnh vực nào mà cần đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đối tác, thị trường. Muốn giữ được độc lập tự chủ thì trong chiến lược, chính sách phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và trong chính sách đối ngoại nói riêng cần nắm vững quan điểm kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó dựa vào sức mình, dựa vào nội lực đất nước là chính, khơi dậy và phát huy cao độ nội lực, trong khi tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực.

Một số phương hướng nhằm giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực tới năm 2030 và tầm nhìn tới năm 2045 của Việt Nam có thể khái quát như sau:

Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Định hướng “độc lập, tự chủ gắn với hội nhập” xuất phát từ tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hơn 35 năm đổi mới, chính việc thực hiện hiệu quả chủ trương này đã góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4)

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết, là tất yếu khách quan. Qua đó, nâng cao vị thế đất nước, nâng cao sức mạnh nội lực, xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và các thách thức mới nảy sinh.

Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất, gắn với kết nối hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực, thế giới; thể hiện rõ vai trò là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế và dựa trên cơ sở ba trụ cột là: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN. 

Trong đó xác định rõ, con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa các yếu tố nền tảng là con người, tài nguyên thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa. Phát huy giá trị văn hóa và tinh thần đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tài năng và phẩm chất của con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong tình hình mới. Việt Nam chủ trương nhất quán: Một là, không lựa chọn nền kinh tế đóng mà luôn kiên định đường lối đổi mới, mở cửa, chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Hai là, tạo môi trường pháp lý phù hợp, ổn định và điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các doanh nghiệp, đối tác đầu tư, kinh doanh lâu dài, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” và tuân thủ pháp luật. Ba là, Việt Nam mong muốn là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm và sẵn sàng chung tay cùng cộng đồng quốc tế giải quyết các thách thức khu vực, toàn cầu, vì một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển thịnh vượng.

Trong lĩnh vực chính trị: Độc lập, tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; xác lập, hoàn thiện và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, trên tất cả các lĩnh vực. 

Để giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị trong quá trình hội nhập quốc tế, cần nhận thức và điều chỉnh các hoạt động của Nhà nước cho phù hợp với thông lệ quốc tế và sự biến đổi của xã hội. Phạm vi và cách thức quản lý của Nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi. Công tác giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước ngày càng được tăng cường. Quyền tài phán tối cao của Nhà nước, Chính phủ, quốc gia đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước vẫn tiếp tục được khẳng định, nhưng phải gắn với những trách nhiệm ngày càng lớn. 

Bên cạnh đó, sự giao thoa giữa khu vực chính sách công với khu vực thị trường trở nên phức tạp, các lợi ích công, tư đan xen, chồng chéo, dễ tạo kẽ hở cho các hành vi tham nhũng, móc ngoặc, rửa tiền; thách thức nghiêm trọng hiệu lực, hiệu quả việc thực thi pháp luật, làm tổn hại quyền lực của Nhà nước. Trình độ dân trí ngày càng cao, người dân ngày càng hiểu biết hơn về chính trị, nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền con người; cũng như kỹ năng thực thi các quyền đó, bao gồm cả nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị. 

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa nhằm quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Xây dựng nền văn hóa và con người mang đậm dấu ấn, những nét đặc sắc trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; phát triển con người toàn diện, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, coi trọng vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(5)

Ngoại giao văn hóa thực chất là hoạt động trao đổi các giá trị văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc, làm cho con người giữa các nước hiểu nhau hơn và làm tiền đề cho việc giải quyết các mặt khác như: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh... Trong chính sách ngoại giao của bất cứ quốc gia nào, ngoại giao văn hóa luôn được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản, không thể thiếu, góp phần mang lại sức mạnh cho dân tộc cũng như bản sắc của nền ngoại giao quốc gia.

Để giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, điều căn cốt nhất của Việt Nam hiện nay là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý xã hội của Nhà nước.

Cần tiếp tục đổi mới, phát triển công tác lý luận, tuyên truyền, vận động, giáo dục của Đảng cả về hình thức lẫn nội dung, bám sát thực tiễn, không xa rời quần chúng; đổi mới công tác cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, chỉnh đốn, kỷ luật Đảng; các chủ trương của Đảng phải nhanh chóng được triển khai thành các chính sách cụ thể của Nhà nước.  

Về phương diện Nhà nước, các chính sách xã hội, tôn giáo, dân tộc cần được coi trọng, tránh để các thế lực xấu lợi dụng, kích động gây chia rẽ; không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thuận xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính; nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng.

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, công tác xã hội đang chuyển dần từ xóa đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh. Do đó, cần tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động của Nhà nước, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong lĩnh vực đối ngoại: Độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hội nhập quốc tế thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo; xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc, không giáo điều, rập khuôn máy móc trong hoạch định và thực thi đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao; trong xác định bạn - thù và tập hợp lực lượng quốc tế. Thực tiễn hiện nay cho thấy, trong quá trình hội nhập quốc tế, một số nước vừa và nhỏ, đang phát triển đã không giữ được độc lập tự chủ, để đất nước rơi vào phụ thuộc về chính trị, an ninh và kinh tế, bị lôi kéo, rơi vào bẫy nợ để rồi đánh mất chủ quyền, thậm chí rơi vào đối đầu, xung đột. 

Hai sự kiện lớn của thế giới hiện nay là đại dịch Covid-19 và xung đột Nga - Ucraina đều là những thực tiễn sinh động để minh chứng rằng, ngay cả những cường quốc cũng đều phải giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập. 

Dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung, Mỹ và nhiều nước phải tìm cách đa dạng hóa, dịch chuyển và tái phân bổ chuỗi cung ứng toàn cầu để tránh phụ thuộc vào một đối tác duy nhất. 

Xung đột Nga - Ucraine cũng bộc lộ những yếu điểm của châu Âu trong việc quá phụ thuộc vào nguồn cung dầu mỏ và khí đốt từ Nga trong nhiều năm và nay châu Âu đang vật lộn với bài toán tự chủ năng lượng. 

Đối với Việt Nam, giữ vững độc lập, tự chủ thì mới chủ động trong lựa chọn chiến lược, giải pháp phù hợp để hạn chế tác động tiêu cực, vượt qua thách thức, tận dụng thời cơ, phát huy mặt tích cực, thế mạnh và lợi thế so sánh của đất nước để hội nhập quốc tế thành công, hiệu quả, đạt được những mục tiêu đề ra trong hội nhập.

Sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, mang lại những thành tựu lớn có ý nghĩa lịch sử. 

Giai đoạn từ nay đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 có ý nghĩa then chốt đối với hội nhập quốc tế, phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc quán triệt sâu sắc và triển khai nhiệm vụ bảo đảm mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới là rất cần thiết, cấp bách đối với mỗi ngành, mỗi cấp cũng như cả hệ thống chính trị.

_________________

Ngày nhận bài: 13-9-2022; Ngày bình duyệt: 29-9-2022; Ngày duyệt đăng: 14-11-2022.

 

(1), (2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.164, 162, 105

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.322.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.48.

                                                                                  TS NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Viện Quan hệ quốc tế,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh    

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền