Trang chủ    Nhân vật - Sự kiện    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng    Phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và Tây Nguyên theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng
Thứ bảy, 26 Tháng 2 2022 17:06
10845 Lượt xem

Phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và Tây Nguyên theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng xác định hệ quan điểm phát triển đất nước, xác định mục tiêu chiến lược, các chỉ tiêu chủ yếu, các đột phá chiến lược, từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đất nước 5 năm 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và 2045. Việc quán triệt, vận dụng những quan điểm đó vào thực tiễn từng vùng, từng địa phương đặt ra cấp thiết. Từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên, bài viết trình bày những quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng phù hợp với bối cảnh phát triển và hội nhập của nước ta hiện nay.

Thành phố biển Đà Nẵng nhìn từ trên cao - Ảnh: vnanet.vn

1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và Tây Nguyên sau 35 năm đổi mới

Khu vực miền Trung và Tây Nguyên gồm 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Nguyên), có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều lĩnh vực như công nghiệp, du lịch, dịch vụ, cảng biển, cây công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao. Đây cũng là khu vực có vị trí địa lý, vai trò đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự phát triển của đất nước. 

Trong những năm qua, khu vực này đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển chung của cả nước. 

Về phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên khá cao, trung bình giai đoạn 2011 - 2020 là 9,06%/năm (cả nước là 5,92%/năm)(1); cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.

Về phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ: Môi trường văn hóa được xây dựng và củng cố; vấn đề bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa được quan tâm; khai thác hợp lý các di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục, đào tạo, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biển, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Cơ sở vật chất của một số đơn vị khoa học và công nghệ được đầu tư và hiện đại hóa. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ trên địa bàn đã có sự phát triển đáng kể.

Về giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội: An sinh xã hội trong khu vực ngày càng được bảo đảm. Công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện theo hướng bền vững, tỷ lệ nghèo thu nhập và nghèo đa chiều giảm đáng kể. Sự nghiệp y tế - chăm sóc sức khỏe đạt được những thành tựu quan trọng. Khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ trong lĩnh vực này ngày càng được mở rộng với chất lượng ngày càng cao. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm toàn vùng có xu hướng giảm. Môi trường xã hội trong vùng tiếp tục phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ; hệ thống an sinh xã hội trong vùng tiếp tục được củng cố.

Tuy vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của miền Trung và Tây Nguyên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng. Quy mô nền kinh tế còn khá nhỏ, các ngành công nghiệp hiện đại, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao còn rất hạn chế. Các ngành công nghiệp chủ yếu thuộc lĩnh vực gia công, nguyên liệu phần lớn nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp. Trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp nội địa lạc hậu, đóng góp của TFP (Total Factor Productivity - năng suất các yếu tố tổng hợp) thấp hơn mức trung bình của cả nước. 

Việc thu hút đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn chưa được đặt ra và triển khai một cách khoa học nên ít tạo được sự chú ý của các nhà đầu tư. Vì vậy, thu hút FDI rất thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực, đặc biệt là lợi thế về phát triển du lịch và kinh tế biển. Chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường thấp, các sản phẩm chủ lực của các địa phương chưa có thương hiệu mạnh. 

Những tiềm năng, thế mạnh về kinh tế biển chưa được khai thác hiệu quả, còn tự phát, dàn trải. Các mối liên kết kinh tế nội vùng còn khá lỏng lẻo. Tư duy “mạnh ai nấy làm” đã dẫn đến sự phân tán về nguồn lực và không tạo nên một chiến lược có tính tổng thể, tổng lực. 

Các ngành nông nghiệp, du lịch, thủy sản, năng lượng... có nhiều lợi thế nhưng chưa được khai thác thật sự hiệu quả. Ở nhiều địa phương, du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng đang gặp nhiều khó khăn do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Các tỉnh ven biển đã đầu tư nhiều hơn cho khai thác tiềm năng kinh tế biển nhưng mới dừng lại ở các sản phẩm truyền thống, giá trị kinh tế không cao. Do đó, nguy cơ tụt hậu trong phát triển kinh tế so với các khu vực khác khá rõ rệt.

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định được thành lập theo Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13-8-2004 của Thủ tướng Chính phủ nhằm mục tiêu “từng bước trở thành một trong những vùng phát triển năng động của cả nước, bảo đảm vai trò hạt nhân tăng trưởng và thúc đẩy phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên”. Tuy nhiên, thực tế phát triển trong những năm qua cho thấy vai trò động lực, chức năng đầu tàu của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đối với sự phát triển của khu vực miền Trung và Tây Nguyên còn khá hạn chế và mờ nhạt. Năm 2019, tỷ trọng đóng góp trong GRDP cả nước của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung còn hết sức “khiêm tốn”, chỉ khoảng 7,09% (trong khi Vùng chiếm đến 8,4% tổng diện tích cả nước). Cơ cấu kinh tế ngành của vùng còn khá lạc hậu, đóng góp của ngành nông nghiệp trong GRDP toàn vùng chiếm tỷ trọng cao (14,12%), cao hơn mức bình quân 13,96% của cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2019 của Vùng chỉ ở mức 56 triệu đồng, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước (58 triệu đồng năm 2018)(2)... Do đó, đa số các địa phương trong Vùng chưa tự bảo đảm cân đối ngân sách mà phải trông đợi vào sự hỗ trợ từ ngân sách trung ương. 

Khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền Trung và Tây Nguyên vẫn còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp, khoảng 1,1 triệu đồng/người/tháng, chưa bằng 1/2 so với mức bình quân chung của cả nước(3)

Lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ còn phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả khu vực miền Trung và Tây Nguyên; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỷ lệ qua đào tạo có cấp chứng chỉ chỉ khoảng 22-23%. 

Hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ còn khá hạn chế. Thị trường khoa học và công nghệ còn sơ khai, manh mún. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa ngang tầm quốc gia, khu vực và quốc tế.

2. Quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền Trung và Tây Nguyên

Từ định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, để phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và Tây Nguyên, cần quán triệt các quan điểm sau:

- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong khu vực phải hướng tới khai thác vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị quan trọng của khu vực, kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với tăng cường an ninh, quốc phòng, bảo vệ biên giới phía Tây, bảo đảm an ninh, chủ quyền vùng biển ở phía Đông, đóng góp xứng đáng vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước. 

- Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người; phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương và toàn khu vực. Trong đó, chú trọng phát triển đồng bộ các yếu tố xã hội phục vụ mục tiêu phát triển con người - nguồn nhân lực - kết hợp chặt chẽ với đổi mới thể chế nhằm phát huy các lợi thế so sánh của vùng và từng địa phương trong vùng. 

- Đổi mới mô hình phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên theo hướng: chuyển từ mô hình phát triển chủ yếu dựa vào các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, vốn tài chính sang mô hình phát triển chủ yếu dựa vào sự kết hợp hợp lý giữa vốn con người - vốn xã hội - vốn tài chính - vốn tài nguyên thiên nhiên. Mô hình này chú trọng đầu tư phát triển các yếu tố “phi kinh tế” như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, môi trường sinh thái, môi trường chính trị - xã hội, gắn với xây dựng chính quyền địa phương số, kiến tạo, phục vụ phát triển... Trong đó, trọng tâm là tạo lập các yếu tố, điều kiện thúc đẩy phát triển con người làm mục tiêu và động lực trong phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và toàn khu vực.

Quán triệt quan điểm trên, các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội các địa phương trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên là: 

Một là, cần đánh giá đúng các nguồn lực phát triển, nhất là nguồn lực đặc thù của mỗi địa phương và của khu vực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, từ đó, có chính sách phù hợp để phát huy tiềm năng, tính chủ động, sáng tạo, đồng thời tăng cường sự liên kết giữa các địa phương như một nhu cầu tự thân để bứt phá phát triển.

Hai là, phát triển kinh tế phải theo hướng bền vững và nhất thiết phải chú trọng đến việc bảo đảm an ninh, quốc phòng của khu vực nói riêng và cả nước nói chung. Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ với hai huyện đảo Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) và Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa) có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay, vùng biển rộng lớn miền Trung còn tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế và là cửa ngõ để Việt Nam nói chung và các tỉnh trong khu vực nói riêng giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, trao đổi và hội nhập với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Nơi đây cũng có nhiều thuận lợi để phát triển bền vững các ngành kinh tế mũi nhọn, như: thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch v.v.. Ngoài ra, khu vực này còn có tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng, đặc biệt là titan, phân bố ở ven biển các tỉnh Thừa Thiên Huế, Bình Định, Bình Thuận. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, thuận lợi cho việc đặt vị trí xây dựng các trạm thông tin, kiểm soát không lưu, hàng hải, dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu, thuyền... trên tuyến hàng hải quan trọng hàng đầu thế giới từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương, có ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên hướng biển. 

Ba là, phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam nói chung, vùng duyên hải Nam Trung Bộ nói riêng là yêu cầu tất yếu đặt ra trong Chiến lược phát triển đất nước, xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, dựa vào biển và hướng ra biển. 

Trên cơ sở xác định kinh tế biển là trụ cột, các tỉnh thành duyên hải Nam Trung Bộ cần có sự hợp tác nhằm hướng đến xây dựng một chiến lược phát triển chung, toàn diện, có sự liên kết chặt chẽ, định hướng lâu dài nhằm khai thác tối đa thế mạnh của từng địa phương và sức mạnh của liên kết vùng, không chỉ trong những hoạt động diễn ra trên biển như du lịch, kinh tế hàng hải, khai thác hải sản, khoáng sản... mà bao gồm cả các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan như công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, công nghiệp chế biến thủy, hải sản, cung cấp dịch vụ hậu cần, đào tạo nhân lực phục vụ quản lý kinh tế biển, nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên biển..., khắc phục tính cục bộ, địa phương, chạy đua phát triển các ngành, lĩnh vực theo kiểu phong trào. 

Để có thể thực hiện được những mục tiêu trên, Chính phủ cần sớm nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Trên cơ sở đó, các địa phương trong vùng có thể triển khai xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 của mình, tránh tình trạng mỗi địa phương tự xây dựng, ban hành quy hoạch trước, độc lập với quy hoạch chung, vừa gây lãng phí nguồn lực vừa không bảo đảm hiệu quả. 

Bên cạnh đó, yêu cầu phát triển bền vững đối với khu vực Tây Nguyên cũng cần được đặc biệt lưu ý. Với tỷ lệ che phủ rừng đã suy giảm nghiêm trọng, việc khai thác nguồn lực đất đai tự phát, thiếu tầm nhìn dài hạn trong những năm qua đang khiến khu vực này dần đánh mất thế mạnh trong phát triển các loại cây công nghiệp giá trị cao như cao su, cà phê, hồ tiêu. Việc khai thác nguồn nước ngầm tự phát, phát triển thủy điện ồ ạt đã dẫn đến tình trạng hạn hán nghiêm trọng vào mùa khô, lũ lụt, sạt lở vào mùa mưa... đe dọa nghiêm trọng tới sinh kế của người dân, sự ổn định an ninh, xã hội tại Tây Nguyên.

Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và Tây Nguyên cần lưu ý vấn đề cải thiện kết cấu hạ tầng nhằm bảo đảm tính liên thông, liên kết giữa các địa phương trong vùng và với các vùng miền khác trong cả nước, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông (cả đường bộ, đường sắt, đường biển), chú trọng tính hợp lý, hiệu quả trong phát triển hệ thống cảng biển, sân bay...

Ngày 24-1-2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 43-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tiếp đến, ngày 13-11-2021, Quốc hội đã thông qua các nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, các tỉnh, thành phố trong vùng đã có thêm nhiều điều kiện thuận lợi về thể chế, chính sách để phát triển. 

Bốn là, để tận dụng, phát huy những thuận lợi về cơ chế nói trên, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm huy động tốt hơn các nguồn lực phục vụ tăng trưởng. Trong những năm qua, nhiều tỉnh thành miền Trung và Tây Nguyên đã có nhiều khởi sắc trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Tuy nhiên, môi trường đầu tư của các địa phương miền Trung và Tây Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Theo số liệu do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về xếp hạng chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2020, thành phố Đà Nẵng có điểm số PCI là 70,12 được xếp hạng 5 (rất tốt); các địa phương trong khu vực thường chỉ ở mức khá, thậm chí trung bình trong bảng xếp hạng PCI cả nước. Cụ thể, Quảng Nam điểm số PCI là 65,72, xếp hạng 13, loại khá; Thừa thiên Huế 64,73, hạng 17; Nghệ An 64,73, xếp hạng 18; Hà Tĩnh 64,56, xếp hạng 21, Khánh Hòa 63,98, hạng 26; Thanh Hóa 63,91, hạng 28, là những địa phương loại khá; còn các tỉnh Quảng Ngãi 63,20, hạng 36; Bình Định 63,18, hạng 37, loại trung bình(4).

Trong thời gian tới, các tỉnh, thành phố miền Trung và Tây Nguyên cần tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch, ổn định; nghiên cứu xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế, phí, thủ tục hành chính mang tính đặc thù nhằm ưu tiên phát triển các ngành khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương và nội vùng. Trong thu hút đầu tư FDI, cần ưu tiên đối với các lĩnh vực, dự án có hàm lượng công nghệ cao, giá trị xuất khẩu lớn bên cạnh vấn đề giải quyết việc làm để bảo đảm yêu cầu phát triển hài hòa, bền vững. Kiên quyết không thu hút đầu tư bằng mọi giá mà bỏ qua các tiêu chuẩn về công nghệ, xem nhẹ các yêu cầu về an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường...

Năm là, để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 như Đại hội XIII đã đề ra, các tỉnh thành miền Trung và Tây Nguyên cần tích cực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nội vùng và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và nước ngoài tới làm việc. Hiện nay, nguồn lao động ở khu vực có trình độ chuyên môn thấp và “là rào cản lớn nhất đối với việc tiếp thu, sử dụng thành thạo và hiệu quả công nghệ, nhất là công nghệ mới”(5).

Trên cơ sở xác định lợi thế, định hướng phát triển của vùng, các tỉnh thành miền Trung và Tây Nguyên cần dự báo, xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học, bài bản. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn, thể trạng, tỷ lệ qua đào tạo, mức độ thích nghi, đáp ứng yêu cầu thị trường của lực lượng lao động tại miền Trung và Tây Nguyên vẫn còn rất hạn chế. Do đó, cần chú trọng phát triển hài hòa, đồng bộ hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học và đào tạo nghề. Bên cạnh đó, ưu tiên xây dựng những trung tâm giáo dục đào tạo hiện đại, tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực cho các ngành công nghệ mà thế giới đang ưu tiên phát triển. Nghiên cứu tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm vùng như Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế thành các đại học quốc gia, đại học đa ngành. Bên cạnh đó, cần dành sự quan tâm đúng mức và có chiến lược phát triển hệ thống các trường dạy nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động.

Các địa phương cũng cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, lao động lành nghề trong và ngoài nước tới làm việc; tăng cường liên kết với các trường đại học có uy tín trong và ngoài nước, các doanh nghiệp tiên tiến đang đầu tư tại địa phương để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động tại chỗ nhằm rút ngắn quá trình đào tạo, nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi của thị trường lao động và tiếp thu các công nghệ, kỹ thuật mới.

Sáu là, miền Trung và Tây Nguyên không chỉ là khu vực có ý nghĩa quan trọng về kinh tế - xã hội mà còn là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về an ninh, quốc phòng của nước ta. Việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực cần gắn với thực hiện chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người với thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; bảo đảm an ninh quốc gia và chủ quyền biên giới. Trong đó, việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo cho bà con các dân tộc thiểu số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Sự phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi còn thấp nên đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, “So với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng gia tăng”(6). Theo Báo cáo nghèo đa chiều do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học và xã hội Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam phối hợp thực hiện, khu vực miền Trung và Tây Nguyên vẫn là một trong những khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước, nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số(7). Vì vậy, việc giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo nói chung và xóa đói giảm nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn góp phần giải quyết vấn đề về dân tộc, tôn giáo, an ninh, quốc phòng trên địa bàn.

Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo theo hướng thực chất, bền vững, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; chuyển từ hỗ trợ trực tiếp, đột xuất, ngắn hạn sang xây dựng các dự án phát triển sinh kế, phát triển giáo dục - đào tạo, dịch vụ y tế - chăm sóc sức khỏe, cơ sở hạ tầng... có tầm nhìn và tính bền vững lâu dài nhất là với vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. 

Bảy là, chú trọng công tác quản lý, xử lý vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là khu vực có nhiều tôn giáo, nhất là tôn giáo trong đồng bào dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, các thế lực thù địch trong và ngoài nước thường xuyên thâm nhập, kích động đồng bào thuộc một số tôn giáo gây mất ổn định an ninh trật tự, làm ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin và sự ổn định xã hội tại nhiều địa phương. Vì vậy, cần quan tâm hơn nữa tới công tác nghiên cứu về đặc trưng tôn giáo, tín ngưỡng cũng như xây dựng, thực thi được chính sách quản lý, phát triển tôn giáo hài hòa, hiệu quả, từ đó tập hợp được sự đoàn kết, phát huy được nguồn lực to lớn trong cộng đồng các tôn giáo tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.

Tám là, quan tâm đầu tư hơn nữa cho nhiệm vụ an ninh, quốc phòng. Cùng với việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang chính quy tinh nhuệ, hiện đại, bảo đảm an ninh quốc gia trên biển, biên giới phía Tây, quan tâm xây dựng “thế trận lòng dân”, phát triển lực lượng dân quân biển, tăng cường giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo cũng như khả năng sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng này và bà con ngư dân ven biển. Đối với khu vực biên giới phía Tây, sự thâm nhập của các lực lượng phản động, chống phá vào Tây Nguyên, hay gần đây là yêu cầu kiểm soát biên giới ngăn chặn buôn lậu, buôn người qua biên giới, yêu cầu kiểm soát dịch Covid-19 đòi hỏi quan tâm đến công tác xây dựng tuyến biên giới an ninh, an toàn. Bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường lực lượng quản lý, kiểm soát biên giới, các địa phương khu vực miền Trung và Tây Nguyên cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng lực lượng tại chỗ bảo vệ biên cương Tổ quốc, đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách quốc phòng, an ninh; quan tâm, chăm lo nâng cao đời sống của người dân, tăng cường cán bộ về cơ sở, sống cùng dân, gần dân để mỗi người dân thực sự là một chiến sỹ trên mặt trận bảo vệ biên cương Tổ quốc, bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương.

__________________

(1), (2) Hoàng Hồng Hiệp, Châu Ngọc Hà, Hoàng Thị Thu Hương: Phát triển kinh tế vùng trọng điểm miền Trung, Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, số 1 (63), 2020.

(3) Thực trạng kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, https://quochoi.vn.

(4) Bảng xếp hạng chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của một số tỉnh, thành phố khu vực miền Trung năm 2020, https://pcivietnam.vn.

(5) Châu Ngọc Hòe: Tăng trưởng xanh vùng Nam Trung Bộ: Một số vấn đề đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trong Kỷ yếu Hội thảo Tăng trưởng xanh khu vực miền Trung, Tây Nguyên: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ.

(6) ĐCSVN: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới. 

(7) https://daihoi.lamdong.dcs.vn.

PGS, TS ĐOÀN TRIỆU LONG

Học viện Chính trị khu vực III

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền