Trang chủ    Quốc tế     Chiến lược xoay trục, tái cân bằng của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương
Thứ tư, 20 Tháng 1 2016 16:58
16657 Lượt xem

Chiến lược xoay trục, tái cân bằng của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương

(LLCT) - Cho đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, Mỹ vẫn coi châu Âu là trọng điểm chiến lược. Từ khi Bush (cha) lên cầm quyền, đồng thời với tăng cường thêm lực lượng ở châu Âu, Mỹ bắt đầu chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương (CATBD) với mục đích duy trì địa vị siêu cường trong thế kỷ mới. Chiến lược đối với CATBD của chính quyền B.Clintơn bắt đầu rõ nét hơn. Bản tuyên bố toàn diện nhất về chính sách mới đối với khu vực đã được Winston Lord trình bày trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện: Đối với Mỹ, không có khu vực nào quan trọng hơn CATBD và không có khu vực nào khác có tầm quan trọng như thế đối với Mỹ trong thế giới mới.

 

Dưới thời của chính quyền Obama tiếp tục kể thừa chính sách đối với khu vực CATBD của các chính quyền tiền nhiệm với chiến lược “xoay trục” - “Tái cân bằng” đối với khu vực CATBD bao gồm các mục tiêu, nội dung, biện pháp chiến lược là một tổng thể toàn diện (cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự và ngoại giao), có mối quan hệ biện chứng với nhau; việc triển khai có mục tiêu rõ ràng, có trọng tâm, trọng điểm.

1. Mục tiêu, nội dung, biện pháp thực hiện chiến lược quay trở lại châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ hiện nay với chính sách “xoay trục” - “Tái cân bằng”

Mục tiêu cụ thể trước mắt: Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực CATBD  để duy trì lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị, văn hóa, sức mạnh quân sự và ngoại giao, nhất là để kiềm chế các nước thách thức vai trò vượt trội của Mỹ trong các khu vực này và trên toàn thế giới với các mục tiêu: 1) Về kinh tế: nhằm đưa nước Mỹ thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái kinh tế, tiếp tục là đầu tàu kinh tế của khu vực và thế giới; 2) Về chính trị: Mỹ muốn có tiếng nói quyết định tại các diễn đàn, các tổ chức, các liên kết trong khu vực, trên cơ sở đó tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò là trung tâm lãnh đạo thế giới; 3) Về văn hóa: tiếp tục truyền bá các giá trị Mỹ, nhất là tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, đưa văn hóa Mỹ thâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào khu vực;  4) Về quân sự: đối phó với việc tăng cường sức mạnh quân sự của các cường quốc trong khu vực, nhất là Trung Quốc, hỗ trợ cho các đồng minh thân cận duy trì sức mạnh vượt trội về quân sự và răn đe tiến công các nước; 5) Về ngoại giao:tăng cường củng cố quan hệ với các đồng minh để tạo sự cân bằng chiến lược giữa Đông và Tây, giữa châu Âu, châu Á, châu Mỹ, giữa nước Mỹ với các trung tâm quyền lực chính trị, sức mạnh kinh tế, quân sự trên thế giới; thu hút các nước khác đi theo Mỹ làm đối trọng với các nước trong khu vực, trước hết là hình thành các liên minh mới để bao vây, làm đối trọng với Trung Quốc, sau đó là Nga...

Mục tiêu cơ bản, lâu dài:đưa các nước đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu; khôi phục vị thế vai trò siêu cường duy nhất của Mỹ và làm bá chủ thế giới.

Để thực hiện mục tiêu trên, chính quyền Obama đã nêu rõnội dung, biện pháp thực hiện:

Một là, tăng cường các mối quan hệ đồng minh an ninh song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ốxtrâylia, Thái Lan, Philíppin trên cơ sở duy trì đồng thuận về chính trị với những giá trị cốt lõi của quan hệ đồng minh; bảo đảm quan hệ đồng minh linh hoạt để đối phó những thách thức mới cũng như tận dụng cơ hội mới; bảo đảm khả năng phòng thủ và hạ tầng thông tin để răn đe bất cứ sự khiêu khích nào.

Hai là, tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi và các quốc gia tiềm năng như: Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Xinhgapo, NiuDilân, Malaixia, Mông Cổ, Việt Nam, Brunây và các quốc đảo ở Thái Bình Dương.

Ba là, tăng cường can dự các thể chế khu vực bằng cách tiến hành tham gia đầy đủ các diễn đàn và tổ chức như ASEAN, APEC, EAS... và đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng chương trình nghị sự của các diễn đàn này.

Bốn là, mở rộng quan hệ, mở rộng thương mại và đầu tư đối với khu vực thông qua APEC, G20 và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) để thúc đẩy mở cửa thị trường, giảm rào cản thương mại, tăng cường minh bạch và thực hiện cam kết thương mại công bằng.

Năm là, tăng cường hiện diện quân sự Mỹ tại khu vực, một mặt tiến hành “hiện đại hóa” các mối quan hệ quân sự với đồng minh ở Đông Bắc Á, mặt khác tìm cách tăng cường hiện diện tại Đông Nam Á và Ấn
Độ Dương.

Sáu là, thúc ép các nước tiến hành cải cách nhằm tăng cường bảo vệ dân chủ, nhân quyền và tự do chính trị theo kiểu Mỹ và phương Tây.

2. Quá trình triển khai chiến lược “xoay trục” - “tái cân bằng” của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương

a) Về quân sự, tăng cường lực lượng hải quân và củng cố các liên minh quân sự song phương với các nước tại CATBD. Tại Diễn đàn Shangrila -2012, Mỹ  khẳng định sẽ bố trí lại sức mạnh hải quân theo hướng tăng cường triển khai tàu sân bay, tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu chiến ven bờ và tàu ngầm ở Thái Bình Dương. Nhằm tái cần bằng sức mạnh quân sự tại khu vực, Bộ Quốc phòng Mỹ đã có những điều chỉnh nguồn lực nhanh chóng để thích ứng với chiến lược mới của Mỹ tại CATBD. Dự tính đến năm 2020, Mỹ sẽ thay đổi tỷ lệ lực lượng hải quân hiện diện là 50-50 giữa hai khu vực thành 40% ở Đại Tây Dương và 60% ở Thái Bình Dương. Việc bố trí lại lực lượng hải quân cho phép Mỹ can dự nhanh hơn, chủ động hơn vào diễn biến tình hình tại đây.

Những diễn biến trong thời gian gần đây ở CATBD đã tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện việc tái xác lập lực lượng, kèm theo là không gian ảnh hưởng, trên nền của những căng thẳng trong khu vực, cụ thể là: ở Đông Nam Á, cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc với Philíppin chung quanh bãi cạn Scarborough nổi lên từ giữa năm 2012 và tiếp tục trong năm 2013 đã tạo điều kiện để Mỹ có thể tăng cường sự có mặt tại Philíppin, không loại trừ xác lập lại các căn cứ quân sự tại đây. Tình hình an ninh khu vực Đông Bắc Á  năm 2013 là địa bàn giúp Mỹ có thể mạnh dạn triển khai kế hoạch “xoay trục” để “tái cân bằng” lực lượng ở khu vực CATBD. Tình trạng căng thẳng giữa Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc được đẩy lên đỉnh điểm vào thời điểm tháng 3-2013 đã giúp cho Mỹ có cớ thực hiện hàng loạt cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn, đồng thời triển khai thêm các trang thiết bị quân sự hiện đại trên bán đảo Triều Tiên, kể cả máy bay ném bom chiến lược B-52. Sự có mặt trên bán đảo Triều Tiên của máy bay tàng hình B-2, con chủ bài trong lực lượng không quân chiến lược Mỹ, là một thông điệp cứng rắn của Oasinhtơn với mục tiêu thể hiện cam kết “tái cân bằng” trên thực tế. Tiếp đó, Mỹ thể hiện lập trường ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc chung quanh quần đảo Nhật Bản gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, với việc khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nằm trong phạm vi của Điều 5 Hiệp ước bảo hộ an ninh Nhật - Mỹ. Điều đó có nghĩa là nếu xung đột nổ ra chung quanh khu vực tranh chấp này, Mỹ sẽ đứng về phía Nhật Bản! Đến khi Trung Quốc bất ngờ tuyên bố về Vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông, phản ứng của Mỹ khá nhanh, mạnh và kiên quyết. Không chỉ tuyên bố không công nhận vùng nhận dạng này của phía Trung Quốc, Mỹ còn điều hai máy bay B-52 không mang theo vũ khí, bay vào vùng nhận dạng rồi quay về.

Các kế hoạch điều chuyển lực lượng và trang thiết bị tới khu vực đã, đang và sẽ được triển khai bao gồm: điều 2.500 lính thủy đánh bộ tới Darwin (Ốxtrâylia); thêm 1 tiểu đoàn lục quân tới Hàn Quốc; 2 tàu khu trục phòng vệ tên lửa tới Nhật Bản, tăng cường các cuộc tập trận với đồng minh và thăm viếng quân sự tới các nước trong khu vực. Bộ Quốc phòng được đánh giá là có điều chỉnh trong việc tái cân bằng lực lượng phản ứng nhanh và thống nhất so với các bộ ngành khác.

Mỹ khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát triển các liên minh quân sự với tất cả các nước trong khu vực,đặc biệt đối với các nước Đông Nam Á hiện đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên biển Đông. Mỹ sẽ tăng cường hợp tác và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ với Xinhgapo, Indônêxia, Malaixia và Ấn Độ, thậm chí cả Myanma.

Tại Shangrila -2012, Mỹ và Xinhgapođã đạt được một số thỏa thuận hợp tác: Chính phủ Xinhgapo cho phép 4 tàu tác chiến ven bờ của Mỹ đến thăm các căn cứ hải quân ở nước này theo đúng cam kết trong Thỏa thuận khung chiến lược giữa hai phía đã ký năm 2005; sử dụng cơ sở huấn luyện quân đội, diễn tập quân sự song phương là thành phố Murai và các tàu chiến Mỹ sẽ luân chuyển đến Xinhgapo. Đối với Philíppin, nơi Mỹ đang triển khai 600 binh sỹ chuyên tham gia các chiến dịch chống nổi dậy với quân đội Philíppin. Trong các cam kết, hai phía sẽ tăng cường diễn tập quân sự chung cũng như nâng cao khả năng phối hợp tác chiến giữa quân đội hai nước. Binh sỹ, tàu chiến, tàu sân bay của Mỹ được phép sử dụng các căn cứ không quân và hải quân ở Subic và Clark. Đối với Thái Lan, trong khuôn khổ đồng minh, phía Mỹ đã đạt được ý định sử dụng căn cứ U - Tapao cho các hoạt động quân đội Mỹ trên danh nghĩa phục vụ mục đích nhân đạo, không ngoại trừ khả năng sử dụng để triển khai các chiến dịch lớn trong tương lai. Mỹ cung cấp nhiều trang thiết bị mới cho Thái Lan, cũng như đẩy mạnh các hoạt động diễn tập quân sự chung với các nước này. Đối với Việt Nam, sau 8 năm đối thoại về quốc phòng, đến năm 2011, hai nước Mỹ - Việt Nam đã ký được “Tuyên bố hợp tác sơ khởi về quân y”. Đến năm 2012, trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới Việt Nam, người phát ngôn của Lầu Năm Góc, Georger Little nhấn mạnh: Mỹ củng cố cam kết lâu dài đối với việc thúc đẩy mối quan hệ quốc phòng song phương mạnh mẽ với Việt Nam dựa trên sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau.

b) Về kinh tế, chính quyền Tổng thống Obama đang theo đuổi chiến lược hai mũi nhọn về kinh tế tại khu vực. Theo đó sử dụng chính sách ngoại giao để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Mỹ (ngoại giao thương mại), đồng thời sử dụng can dự kinh tế để hỗ trợ cho các ưu tiên trong chính sách ngoại giao.

Theo số liệu thống kê của Cơ quan đại diện thương mại Mỹ (USTR), ngay vào thời điểm năm 2009, tổng kim ngạch thương mại và dịch vụ giữa Mỹ và các nước thành viên APECđã là 1,9 nghìn tỷ USD, 9 trong tổng số 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Mỹ nằm ở CATBD. Và năm 2012, Mỹ xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá 942 tỷ USD sang thị trường các nước CATBD, chiếm 61% tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ. Thị trường CATBD đã tạo ra công ăn việc làm cho gần 3 triệu người Mỹ. Đầu tư của Mỹ vào khu vực này năm 2012 đạt 622 tỷ USD, tăng hơn 35% so với thời điểm Obama bắt đầu lên cầm quyền.

Mỹ xác định TPP là sự tập trung chủ chốt trong chính sách thương mại của nước này tại CATBD, đồng thời là nền tảng cho chính sách tái cân bằng. Cuối năm 2005, các nước Brunây, Chilê, Niu Dilân và Xinhgapo đã ký một Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với tên gọi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tháng 9-2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP nhưng không phải gia nhập vào TPP cũ mà sẽ cùng các bên đàm phán một FTA hoàn toàn mới, tuy nhiên, vẫn lấy tên gọi là TPP. Sau đó, Ôxtrâylia, Pêru, Việt Nam, Malaixia, Canađa, Mêhicô và Nhật Bản lần lượt tham gia vào TPP, đưa tổng số thành viên TPP hiện nay lên thành 12. Bắt đầu khởi động từ tháng 3-2010, đàm phán TPP đến tháng 9-2014 đã trải qua hàng chục phiên chính thức cũng như phiên giữa kỳ và được dự báo có thể hoàn tất trong nửa đầu năm 2015. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư và nếu có thể, sẽ trở thành hạt nhân để hình thành FTA chung cho toàn khu vực CATBD. Theo tính toán của Mỹ, đến năm 2025, TPP có thể làm lợi thêm cho nền kinh tế Mỹ 70 tỷ USD mỗi năm.

Ngoài TPP, năm 2012, Mỹ đã hoàn tất Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, đang tiến hành tham vấn Hiệp định khung về thương mại và đầu tư (TIFA) với Đài Loan và Hiệp định đầu tư song phương với Trung Quốc và Ấn Độ. 

Các cơ quan tài chính liên bang đóng vai trò lớn trong can dự kinh tế của Mỹ với khu vực và đã chuyển hướng nguồn lực của họ tới CATBD trong những năm qua. Trong giai đoạn 2008-2013, nguồn lực của Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Exim Bank) tại CATBD tăng 14 tỷ USD; nguồn lực của Tập đoàn đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) tăng từ 1 tỷ lên 2,7 tỷ USD. Trong năm tài khóa 2013, 41% tổng chi tiêu của Cơ quan Phát triển và Thương mại Mỹ (USTDA) là tại khu vực CATBD. USTDA đã chi 7,5 triệu USD cho các chương trình tại Đông Á và 9,7 triệu USD tại Nam Á và Đông Nam Á, trong đó có các dự án tại Inđônêxia và Việt Nam theo Sáng kiến Đối tác toàn diện Mỹ - CATBD vì Năng lượng Bền vững. Đồng thời, năm 2013, Mỹ cũng đưa ra các kế hoạch đẩy mạnh chương trình “Select USA” nhằm thúc đẩy đầu tư từ CATBD vào Mỹ. 

c) Về ngoại giao, Mỹ đã tăng cường củng cố các liên minh song phương truyền thống và đẩy mạnh hợp tác sâu rộng hơn với các đối tác đang nổi. Trong nhiệm kỳ đầu của Obama, chính sách “xoay trục” đã được thúc đẩy rất mạnh mẽ. Thực tế này phần nào được thể hiện qua thống kê về các chuyến công du tới khu vực CATBD của các lãnh đạo cấp cao của Mỹ. Tháng 11-2009, Tổng thống Mỹ thăm Xinhgapo, Trung Quốc và Hàn Quốc. Tháng 11-2010, Tổng thống Mỹ thăm Inđônêxia, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tháng 11-2011, Tổng thống Mỹ thăm Ôxtrâylia và Inđônêxia. Tháng 3-2012, Tổng thống Mỹ thăm Hàn Quốc và tháng 11 cũng trong năm 2012, thăm Thái Lan, Myanma, Campuchia và dự Hội nghị cấp cao Đông Á; Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ công du CATBD 2 lần trong năm 2009, 4 lần năm 2010, 3 lần năm 2011 và 3 lần năm 2012. Riêng đối với Ngoại trưởng Mỹ, chương trình làm việc của Hillary Clintơn kín đặc các chuyến đi tới các nước CATBD: 3 chuyến năm 2009, 5 chuyến năm 2010, 4 chuyến năm 2011, 5 chuyến năm 2012. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ của mình, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clintơn dự đủ cả 4 kỳ ARF cũng như các cuộc Tham vấn cấp bộ trưởng Ốxtrâylia - Mỹ, Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung, Tham vấn an ninh Mỹ - Nhật Bản. Bà Clintơn cũng đề xuất tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ - Hàn Quốc, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ - Philíppin. Bà Clintơn là Ngoại trưởng Mỹ đầu tiên trong lịch sử thăm Myanma và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Tháng 9-2013, sáng kiến về tham vấn chính thức liên quan đến Bộ quy tắc ứng xử các bên ở Biển Đông (COC) nhằm kiểm soát cách hành xử trên Biển Đông mang lại một cơ hội để cải thiện và nâng cao năng lực của các đồng minh và đối tác. Bộ Ngoại giao Mỹ cũng đã công bố gói trợ giúp hàng hải song phương và khu vực trị giá 32,5 triệu USD, trong đó có 18 triệu USD để cải thiện năng lực cho các đơn vị tuần tra duyên hải của Việt Nam, sẽ giúp nâng cao thực lực của các đối tác. Mỹ đang và sẽ tiếp tục trợ giúp các đồng minh và đối tác trong lĩnh vực này để tăng cường hợp tác khu vực trong lĩnh vực hàng hải. Một giải pháp ít tốn kém đang được giới chức Mỹ bàn thảo là đưa thêm các tàu khu trục nhỏ tới các quốc gia đối tác trong khu vực nhằm giúp các nước này tăng cường thực lực trên biển. 

Chuyến thăm 4 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia và Philíppin (tháng 4-2014) của Tổng thống Mỹ  được đánh giá là sự tái khẳng định chiến lược xoay trục của Mỹ. Trong chuyến đi này, Mỹ tuyên bố quần đảo tranh chấp trên biển Hoa Đông “nằm trong phạm vi bảo vệ của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật”. Điều đó có nghĩa là các lực lượng Mỹ sẵn sàng đáp trả bất cứ sự đe dọa nào về quân sự nhằm vào Nhật Bản. Tại Hàn Quốc, vấn đề cốt lõi là Mỹ đồng ý hoãn việc chuyển giao Quyền chỉ huy thời chiến (OPCON) cho Hàn Quốc, trước đó được dự kiến vào tháng 12-2015. Động thái này thể hiện sự cam kết an ninh vững chắc của Mỹ dành cho Hàn Quốc trong bối cảnh căng thẳng đang tiếp tục leo thang trên bán đảo Triều Tiên. Nếu như với hai đồng minh truyền thống, các động thái của Mỹ nhằm củng cố lại sự hợp tác vững chắc đã được thiết lập từ nhiều năm, thì với Malaixia, việc nhất trí nâng cấp quan hệ song phương lên “quan hệ đối tác toàn diện” được xem là trang sử mới trong quan hệ không mấy gần gũi hàng thập kỷ qua giữa hai nước (lần đầu tiên một tổng thống đương nhiệm Mỹ đến Malaixia kể từ thời Giônxơn năm 1966).

Mỹ tăng cường sự can dự vào các thể chế khu vực: tăng thêm một chức vụ Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề đa phương trong Cục Đông Á-TBD, bổ nhiệm Đại sứ tại ASEAN, kýHiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á(TAC), cử đại diện cấp nhà nước tới dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ở cấp ngoại trưởng tới dự Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Năm 2012, Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đã tham dự Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) và là quan chức cấp cao nhất của Mỹ tham dự diễn đàn này từ trước tới nay. 

Mỹ theo đuổi một loạt các sáng kiến hợp tác với các thể chế đa phương châu Á,trong đó có các vấn đề năng lượng, y tế thông qua Sáng kiến Hạ lưu sông Mêkông (LMI), đầu tư và thương mại thông qua APEC, tăng trưởng kinh tế và biến đổi khí hậu thông qua ASEAN, tội phạm xuyên quốc gia và năng lượng sạch thông qua EAS. Mỹ đẩy mạnh và nhân rộng các sáng kiến mới được đề xuất tại diễn đàn APEC, chẳng hạn như lập quỹ tài trợ cải thiện tính liên tục của nguồn cung sản phẩm, thành lập Nhóm làm việc về minh bạch và chống tham nhũng. Bên cạnh đó, Mỹ sẽ tăng cường các nỗ lực hợp tác khu vực trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo, khắc phục thiên tai và tìm kiếm cứu hộ, chẳng hạn như trong vụ tìm kiếm máy bay mất tích tại Malaixia mới đây.

Mỹ tích cực hợp tác với các nước tiểu vùng sông Mêkông; là quốc gia rất tích cực đưa ra các sáng kiến hợp tác với các nước vùng hạ lưu sông Mêkông. Điều này được giới nghiên cứu nhận thức như một sự trở lại khá linh hoạt và mềm dẻo của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Họ nhìn nhận, đằng sau sự “quay trở lại” đó, còn là sự thể hiện vai trò không thể thiếu của nước Mỹ nhằm đối trọng với Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á nói chung và với tiểu vùng sông Mêkông nói riêng. Ngay trên tạp chí Foreign Policy8-2010 (Mỹ), nhà nghiên cứu Jonh Lee nhận định: nếu Mỹ thực sự quan tâm đến việc tăng cường sự hiện diện của mình tại châu Á, Mỹ nên tập trung vào sông Mêkông vì nơi đây Mỹ gặt hái được nhiều lợi ích hơn.

Tháng 7-2009, thông qua nhiều kênh khác nhau, phía Mỹ đề nghị tổ chức cuộc gặp giữa các Bộ trưởng Ngoại giao các nước hạ lưu Mêkông và Mỹ bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN và ARF. Lần đầu tiên Ngoại trưởng Mỹ công bố chính thức tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phuket (Thái Lan) một “Sáng kiến Hạ lưu sông Mêkông” (US - Lower Mekong Initiative - LMI). Mục đích của sáng kiến là đẩy mạnh hợp tác, trợ giúp về môi trường, y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng của Mỹ đối với các nước thuộc hạ lưu sông Mêkông, bao gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Các nước Mêkông đều bày tỏ hoan nghênh và quan tâm đến sáng kiến hợp tác và cho rằng sáng kiến này của Mỹ là kịp thời và bổ sung cho các cơ chế khác hiện có. Phía Mỹ đánh giá cao các nước ủng hộ và coi đây là một cuộc gặp mang tính lịch sử mở ra một cơ chế hợp tác mới. Mục tiêu địa - chính trị của sáng kiến này nằm trong chính sách “quay trở lại Đông Nam Á” của Mỹ, thể hiện vai trò đối trọng của Mỹ với Trung Quốc tại khu vực sông Mêkông. Đúng như lời khẳng định của Ngoại trưởng Hillary Clinton: Mỹ đang trở lại Đông Nam Á, và Mỹ hợp tác trọn vẹn với các đối tác trong khu vực này trong một loạt những thách thức đang đe dọa mọi người. Còn Thượng nghị sĩ Jim Webb thì khẳng định: “Mỹvà cộng đồng thế giới có một cam kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh của cư dân sống phụ thuộc vào con sông Mêkông cùng với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ.

Để khẳng định sự có mặt của Mỹ tại khu vực hạ lưu Mêkông, ngay sau đó, một thông cáo có thể nói là chưa hề có từ trước tới nay giữa Mỹ và các nước Mêkông đã được ban bố rộng rãi liên quan tới những vấn đề quan tâm chung, đặc biệt là trong các lĩnh vực môi trường, y tế, giáo dục, và phát triển hạ tầng. Ngoại trưởng Mỹ đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của vùng hạ lưu sông Mêkông và mỗi quốc gia Mêkông đối với Mỹ, cùng với cam kết hỗ trợ nhằm bảo đảm hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Đông Nam Á. Tại Hội nghị, các ngoại trưởng đã thảo luận sôi nổi về các lĩnh vực bao gồm ảnh hưởng biến đổi khí hậu và làm thế nào để đáp ứng có hiệu quả; phòng chống bệnh truyền nhiễm; mở rộng ứng dụng kỹ thuật cho giáo dục và đặc biệt quan tâm phát triển vùng nông thôn cũng như phát triển hạ tầng. Các Ngoại trưởng Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam cũng ghi nhận sự hợp tác chặt chẽ hơn của Mỹ với các nước hạ lưu Mêkông hiện nay nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững trong vùng. Sau những thảo luận chung đó, ngoại trưởng các nước đã xét duyệt những nỗ lực chung đang tiến hành, và đồng ý mở ra những lĩnh vực hợp tác mới. Để triển khai sáng kiến này, Mỹ cam kết tài trợ cho các lĩnh vực mà các nước lưu vực sông Mêkông đang thực sự khó khăn đó là: môi trường, y tế và giáo dục và phát triển cơ sở hạ tầng. Chương trình này kéo dài 3 năm nhằm giúp các nước ở lưu vực sông Mêkông triển khai chiến lược về các vấn đề cần thiết nêu trên, đặc biệt là nhằm đối phó với tác động do biến đổi khí hậu gây ra cho các nguồn nước và an ninh lương thực. Có thể nhận thấy, bước đầu, những khoản trợ giúp của Mỹ chưa lớn. Nguồn vốn này còn mang tính chất tượng trưng hơn là đầu tư thực sự tương xứng với tầm vóc của một cường quốc như Mỹ cũng như nhu cầu của các nước lưu vực Mêkông. Do đó, khả năng “đối trọng” của Mỹ với Trung Quốc ngay tại lưu vực Mêkông cũng chưa được như mong muốn của chính quyền Mỹ, nhất là khi Trung Quốc lại đang ở thế “thượng phong” trong khu vực này

Về vấn đề dân chủ - nhân quyền, một mặt, Mỹ khẳng định không thể và không muốn áp đặt hệ thống giá trị của Mỹ lên các nước khác, mặt khác, Mỹ lại cho rằng, có những giá trị nhất định mang tính phổ biến mà các nước cần tôn trọng. Mỹ tiếp tục thúc giục các nước tiến hành cải cách chính trị, tiếp tục truyền bá, cổ súy giá trị dân chủ - nhân quyền thông qua việc nêu đậm nội dung dân chủ - nhân quyền trong thúc đẩy các mối quan hệ song phương. Ví dụ, sau những cải cách dân chủ ở Myanma, Mỹ xem Myanma là biểu tượng thành công của tiến trình dân chủ hóa như nới lỏng cấm vận với Myanma thông qua việc Tổng thống Obama thăm Myanma ngay sau khi đắc cử. Ngoài việc ủng hộ các nhóm chống đối mang danh “các nhà hoạt động dân chủ” ở Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ tiếp tục đầu tư vào các tổ chức phi chính phủ liên quan nhân quyền, nhân đạo, gắn vấn đề dân chủ - nhân quyền với các vấn đề kinh tế, phát triển, lệnh cấm bán vũ khí trong quan hệ với nhiều nước ở khu vực.

Về hợp tác ứng phó biến đổi khí hậu, Mỹ tích cực tham gia vào các hành động đối phó biến đổi khí hậu nhằm cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tổng thống Obama đã đưa ra chính sách mới toàn diện nhằm chống lại tác động của tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, để đẩy mạnh nỗ lực phát triển năng lượng sạch, và gia tăng hiệu suất năng lượng của máy móc cũng như các tòa nhà. Mỹ đi đầu ủng hộ Tuyên bố Majuro - Hiệp ước mới của khu vực Thái Bình Dương, thành lập Quỹ Thái Bình Dương - Mỹ nhằm hỗ trợ các quốc đảo Thái Bình Dương dễ bị ảnh hưởng bởi vấn đề mực nước biển dâng cao. Hiện Mỹ đang tài trợ 24 triệu USD trong thời hạn 5 năm cho các dự án tại “các cộng đồng duyên hải dễ bị ảnh hưởng” trong khu vực.

Như vậy, chiến lược của Mỹ đối với CATBD sau Chiến tranh lạnh là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu của chính quyền Mỹ, mà mục tiêu xuyên suốt, nhất quán là sử dụng ưu thế về kinh tế, chính trị, quân sự, giành quyền bá chủ khu vực và thế giới. Đây là một trong những nhân tố quan trọng làm cho quan hệ giữa các nước lớn và cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước này ở khu vực càng gay gắt, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Việt Nam cần hết sức quan tâm, theo dõi và có những điều chỉnh chính sách thích hợp, gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội tinh nhuệ, hiện đại, đủ sức bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đất nước trong mọi tình huống. Đồng thời, tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong cuộc đấu tranh chống các mối đe dọa chung, vì mục tiêu xây dựng khu vực CATBD và thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2015

Tài liệu tham khảo                                             

1. TTXVN: “Mỹ với Đông Á và Inđônêxia” Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 18-1-2006.

2. TTXVN: “Ảnh hưởng của sự kiện 11-9 đối với sự cân bằng chiến lược châu Á Thái Bình Dương, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 11-6-2002.

3. “Tình hình chính trị - quân sự ở Đông Nam Á và khu vực châu Á Thái Bình Dương”, Sự kiện và nhân vật nước ngoài,số 1-2004.

4. Phan Doãn Nam: “Về chính sách đối ngoại của chính quyền Obama” Tạp chí Cộng sản, số 797 (3-2009).

5. Vũ Lê Thái Hoàng: Sức mạnh thông minh, thế kỷ Thái Bình Dương và học thuyết đối ngoại Obama, 2012.

6. Hillary Clinton: Remarks on Regional Architecture in Asia;Principles and Priorities, 19-6-2010.

7.Hợp tác Mỹ và các nước Mekong, http://www.mofa.gov.vn/

9. US - Lower Mekong Countries Meeting: Press Release, US Department of State, July/23/2009.

10. Webb Calls on Sec:Clinton to Strengthen Cooperation to Avert Crisis in Mekong River Region of Southeast Asia.Says U.S. should consider withdrawing funding for Mekong River Commission if environmental standards are not met.  http://webb.senate.gov/newsroom/pressreleases/10-27-2010-02.cfm

11.Nghiên cứu châu Mỹ ngày nay, 7-2012

12.Báo cáo “Đánh giá chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương”, 2013, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ.

 

PGS, TS Nguyễn Thị Quế

Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS Nguyễn Thị Thúy

Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền