Trang chủ    Quốc tế    ASEAN chủ động kiến tạo “vai trò trung tâm” hợp tác kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh đại dịch Covid-19
Thứ năm, 08 Tháng 7 2021 11:47
2913 Lượt xem

ASEAN chủ động kiến tạo “vai trò trung tâm” hợp tác kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh đại dịch Covid-19

(LLCT) - Năm 2020, nền kinh tế thế giới suy giảm tăng trưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. ASEAN đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tiếp tục cam kết và duy trì “vai trò trung tâm”trong các cơ chế hợp tác kinh tế khu vực và liên khu vực. Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN-2020, đã tích cực, chủ động cùng các quốc gia ASEAN thúc đẩy hợp tác kinh tế, đưa lại những thành công nhất định, đồng thời tạo lòng tin cho các đối tác.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam cùng Cộng đồng ASEAN đã tự tin thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ, sự nỗ lực và tinh thần tự cường, tiếp tục kiến tạo “vai trò trung tâm” trong hợp tác kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, các quốc gia ASEAN tiếp tục chủ động hợp tác với các nền kinh tế lớn nhằm tận dụng cơ hội phát triển và sự ủng hộ “vai trò trung tâm” trong hợp tác kinh tế của ASEAN

Đối với Mỹ, là đối tác thương mại lớn thứ 2 và nhà đầu tư lớn thứ 4 của ASEAN, Mỹ tiếp tục ủng hộ “vai trò trung tâm kinh tế” của ASEAN ở châu Á - Thái Bình Dương. Hiện nay, Mỹ đang có khoảng 350 doanh nghiệp hàng đầu trong tổng số 4.200 doanh nghiệp Mỹ có mặt tại ASEAN(1). Tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN với các đối tác bằng hình thức trực tuyến vào tối  28-8-2020, Bộ trưởng Thương mại Mỹ đã cam kết hỗ trợ các nỗ lực phục hồi của nền kinh tế ASEAN thông qua các chương trình hợp tác phát triển Mỹ - ASEAN đang triển khai như: Chương trình Đối tác về tối ưu hóa hợp tác khu vực (PROSPECT), Chương trình Tăng trưởng bao trùm thông qua sáng tạo, thương mại và thương mại điện tử (IGNITE) và các chương trình hợp tác kinh tế-thương mại, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (MSMEs) khởi nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo, tận dụng các thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0...

Trong các nghị quyết họp cấp Bộ trưởng kinh tế, Mỹ đã dành sự hỗ trợ cho ASEAN, đặc biệt là sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả thông qua Sáng kiến Tương lai Y tế ASEAN-Mỹ, Mạng lưới các chuyên gia y tế ASEAN-Mỹ, hỗ trợ nâng cao năng lực y tế dự phòng, kiểm soát dịch bệnh ở khu vực, mở Văn phòng khu vực của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật (CDC) tại Việt Nam. Tháng 11-2020, Mỹ cam kết hỗ trợ các nước ASEAN ứng phó với dịch bệnh thông qua hỗ trợ về tài chính và trang thiết bị với tổng trị giá 87 triệu USD.

Đối với Trung Quốc, ASEAN tiếp tục chú trọng mối quan hệ với đối tác chiến lược hàng đầu và tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc đối với “vai trò trung tâm kinh tế” ở châu Á - Thái Bình Dương. Trung Quốc cam kết thúc đẩy hợp tác hai bên thông qua việc triển khai hiệu quả “Kế hoạch hành động 2016 - 2020”, sớm hoàn tất các thủ tục nâng cấp Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA). Mặc dù đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến cả hai phía, song năm 2020, Trung Quốc và ASEAN vẫn gia tăng hoạt động trao đổi kinh tế, bao gồm cả thương mại và đầu tư. Trong nửa đầu năm 2020, các chuyến hàng từ ASEAN đến Trung Quốc đã tăng 24% trong khi các chuyến hàng từ Trung Quốc sang ASEAN tăng 29%(2). Cả hai bên tăng cường hợp tác phòng chống đại dịch Covid-19. Viện trợ của Trung Quốc cho các nước ASEAN tập trung vào các trang thiết bị y tế thiết yếu với số lượng lớn.

Đối với Nhật Bản, tại kênh tham vấn cấp Bộ trưởng kinh tế năm 2020, Nhật Bản khẳng định đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 và nhà đầu tư lớn thứ 2 của ASEAN. Nhật Bản tiếp tục khẳng định quan điểm ủng hộ “vai trò trung tâm” của ASEAN. Nhật Bản cam kết triển khai hiệu quả Nghị định thư thứ nhất sửa đổi Hiệp định Đối tác Toàn diện ASEAN - Nhật Bản có hiệu lực từ tháng 8 - 2020. Nhật Bản tái khẳng định nỗ lực bảo đảm sự phát triển bền vững của kinh tế và tài chính cấp vĩ mô, thông qua việc mở cửa thị trường cho thương mại và đầu tư, bảo đảm sự bền vững của chuỗi cung ứng, đặc biệt là đối với các loại hàng hóa thiết yếu đáp ứng nhu cầu chống đại dịch Covid của các nước ASEAN. Cả hai phía đều nhận thức chung về việc ký kết Hiệp định RCEP trong năm 2020. Chính phủ Nhật Bản đã cấp bổ sung 1,045 tỷ Yên (khoảng 9,5 triệu USD) cho Quỹ Liên kết Nhật Bản - ASEAN (JAIF), huy động 3 tỷ USD từ khu vực công - tư trong ba năm, trong đó ưu tiên 1,2 tỷ USD cho các khoản vay và đầu tư nước ngoài vào ASEAN thông qua Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)(3), đồng thời cam kết đóng góp 1 triệu USD cho Quỹ ASEAN ứng phó Covid-19 và hỗ trợ 50 triệu USD thành lập trung tâm ASEAN ứng phó các tình huống y tế công cộng khẩn cấp và bệnh dịch mới.

Kế hoạch tổng thể chung trong hợp tác kinh tế giữa ASEAN - Nhật Bản nhằm hiện thực hóa 3 mục tiêu chính: (i) bảo đảm sự gắn kết giữa hai nền kinh tế ASEAN- Nhật Bản, (ii) Giảm thiểu các tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 đối với các nền kinh tế, (iii) Linh hoạt và thích ứng để bảo đảm các nền kinh tế tăng trưởng, phát triển sau đại dịch. Vì vậy, Nhật Bản đang cân nhắc đa dạng hóa các chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang các nước ASEAN, bởi một số quốc gia trong ASEAN đã kiểm soát khá tốt dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu khôi phục sản xuất của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Đối với EU, các nước ASEAN và EU đã quyết định chính thức nâng cấp quan hệ ASEAN-EU lên đối tác chiến lược. Các bộ trưởng Ngoại giao đã thông qua “Tuyên bố chung ASEAN-EU về kết nối”; nhất trí tiếp tục nghiên cứu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-EU (EAFTA), sớm hoàn tất Hiệp định Vận tải hàng không toàn diện (CATA)... Hệ thống quá cảnh hải quan ASEAN chính thức đi vào hoạt động với sự hỗ trợ của chương trình thuận lợi hóa thương mại của EU, đã mở ra cơ hội hợp tác kinh tế cho cả hai phía. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến khu vực, EU đã hỗ trợ ASEAN 800 triệu Euro để phòng ngừa dịch bệnh và tích cực ủng hộ Quỹ ASEAN ứng phó Covid-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp của ASEAN và hỗ trợ ASEAN triển khai Khung phục hồi tổng thể(4). Tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN - EU lần thứ 53 (2020), EU công bố sáng kiến mới triển khai chương trình hỗ trợ y tế sẵn sàng ứng phó đại dịch tại Đông Nam Á trong khuôn khổ gói trợ giúp trị giá 350 triệu euro của EU dành cho ASEAN nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực y tế, ứng phó dịch bệnh tại khu vực(5). EU tiếp tục khẳng định ủng hộ “vai trò trung tâm” của ASEAN, nhấn mạnh ASEAN là đối tác quan trọng của EU ở khu vực, có nhiều lợi ích, tiềm năng và thế mạnh hợp tác kinh tế.

Hàn Quốc cũng tích cực triển khai “Chính sách hướng Nam mới”, phát huy sự tương đồng với ý tưởng về “Cộng đồng ASEAN - Hàn Quốc”. Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp mới và thiết thực, tập trung vào 7 lĩnh vực chính, trong đó chú trọng lĩnh vực hợp tác y tế toàn diện. Lĩnh vực y tế đã phát huy tối đa hiệu quả trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Hàn Quốc cam kết đóng góp 1 triệu USD cho Quỹ ASEAN ứng phó dịch Covid-19; hỗ trợ gói thiết bị, vật tư y tế 5 triệu USD giúp các nước ASEAN ứng phó với đại dịch(6).

Thứ hai, thượng tôn pháp luật, xây dựng các khuôn khổ hợp tác mang tính ổn định, đặc biệt cho phát triển nền kinh tế số, đủ sức cạnh tranh, thu hút sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng, tạo dựng lòng tin với các đối tác kinh tế

Việc đề cao pháp luật trong hợp tác kinh tế là cách tiếp cận chung của các nền kinh tế trên thế giới hiện nay. Xu hướng các doanh nghiệp thường lựa chọn trong hợp tác là tính minh bạch của các đối tác, gắn liền với nó là các cơ chế, chính sách và các cơ quan thực thi vận hành theo hướng minh bạch và ổn định. Để trở thành trung tâm của các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương, ASEAN phải có cách tiếp cận chung với thế giới. Hiện nay, các khuôn khổ hợp tác mang tính ổn định của ASEAN đang được phát huy. Đó là việc đang tăng cường và nâng cấp các Hiệp định Thương mại Tự do với các đối tác (FTAs+1), và các cơ chế kinh tế đa phương ASEAN đang tham gia. Các FTA của ASEAN có vai trò quan trọng trong việc góp phần làm vững mạnh hơn một hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ lấy Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) làm trung tâm và xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN tự cường hơn, phù hợp với cam kết của các nhà lãnh đạo về duy trì một cấu trúc khu vực mở, có tính bao trùm, minh bạch và dựa trên luật lệ.

Một trong những cơ chế đa phương điển hình thể hiện “vai trò trung tâm” kinh tế của ASEAN ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương là RCEP (Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực) được ký kết vào cuối năm 2020. Nếu như trước 2020, các thành viên không thuộc ASEAN của RCEP được kết nối với ASEAN thông qua các cơ chế khu vực mậu dịch tự do ASEAN + 1, thì sau 2020, RCEP có khả năng tiếp cận lớn hơn và sẽ thay thế cơ chế ASEAN+1.  RCEP được đánh giá là FTA lớn nhất thế giới với 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm 27% GDP thế giới và 40% thương mại toàn cầu. RCEP cũng là FTA duy nhất hội tụ đa dạng, không đồng nhất từ các nền kinh tế thế giới. RCEP loại bỏ thuế quan đối với gần 90% hàng hóa giao dịch; quy tắc xuất xứ có giá trị trong toàn bộ khu vực địa lý RCEP; quy định rõ ràng hơn về thương mại dịch vụ và đầu tư nước ngoài xuyên biên giới; nhiều quy tắc mới về tạo thuận lợi cho thương mại điện tử.

Thứ ba, nỗ lực đầu tư cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động đầu tư, kinh doanh

ASEAN tập trung vào cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Ở các mức độ khác nhau, các quốc gia đều đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan, cải thiện môi trường kinh doanh, rút ngắn thời gian triển khai các hoạt động hợp tác, đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài tại ASEAN. Bên cạnh đó, chính phủ các nước ASEAN tích cực hỗ trợ về thông tin hội nhập khu vực, giới thiệu về thị trường các nước ASEAN, về những ưu đãi và thuận lợi mà các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng. Đồng thời, chính phủ các nước ASEAN đưa ra thông điệp cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài về hợp tác, đầu tư, xúc tiến quảng bá hàng hóa, tham vấn các kinh nghiệm trong việc áp dụng thành tựu khoa học vào sản xuất; chú trọng cải thiện chất lượng nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Năm 2020, ASEAN đã hoàn thành “Cơ sở dữ liệu ASEAN về các tuyến giao thương và Khuôn khổ nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng”, chủ động xây dựng các kỹ năng sẵn sàng cho tương lai thông qua đào tạo kỹ thuật và dạy nghề (TVET) và giáo dục đại học.

Thứ tư, nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển, lấy người dân làm trung tâm, lấy lợi ích cộng đồng làm cơ sở

Người dân vừa là mục tiêu của phát triển vừa là đối tượng phục vụ, người dân cần phải là trung tâm cho mọi hoạt động của cả chính phủ và doanh nghiệp.

Năm 2020, quan điểm này được thể hiện trong các văn bản của ASEAN ký kết với các đối tác bên ngoài bao gồm: “Tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Phát triển nông thôn và Xóa đói giảm nghèo” (AMRDPE) tại Hội nghị trực tuyến đặc biệt về Giảm nghèo và Xây dựng khả năng phục hồi hướng tới phục hồi Covid-19; Chiến lược hợp tác khu vực về an ninh và tự cường về dược phẩm của ASEAN, Tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN về an ninh và tự lực về vắc xin của ASEAN... Để hiện thực hóa mục tiêu này, chính phủ các nước đã khuyến khích, tạo thuận lợi để mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào quá trình phát triển với sức sáng tạo mạnh mẽ, gắn kết các nguồn lực qua kết nối, linh hoạt trong hành động. Đồng thời, chính phủ các nước ASEAN chú trọng ưu tiên các cơ chế hợp tác tiểu vùng để thu hẹp khoảng cách phát triển. Hợp tác tiểu vùng sông Mekong hay tiểu vùng BIMP-EAGA (Brunei - Indonesia - Malaysia - Philippines), là những “hòn đá tảng” triển khai các lĩnh vực: thương mại- đầu tư; nông nghiệp; công nghiệp - năng lượng; giao thông; du lịch; phát triển nguồn nhân lực; y tế; môi trường.

Cơ chế “Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam” (CLV) được các thành viên tích cực đẩy mạnh hợp tác nhằm bảo đảm an ninh, ổn định chính trị, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế này hiện thu hút sự tham gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) và ASEAN với tư cách đối tác phát triển, qua đó thúc đẩy hợp tác, xây dựng các nền kinh tế khu vực tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam hội nhập, bền vững, thịnh vượng.

Thứ năm, ASEAN coi trọng sự đồng hành giữa chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài, cam kết đưa lại hiệu quả cho cả hai phía

Chính phủ các nước ASEAN nhận thức: hòa bình, ổn định phải là mục tiêu chung; đối thoại, hợp tác phải là công cụ chính và con người phải là trọng tâm của chính sách. Khi triển khai các hoạt động hợp tác kinh tế trong khu vực và liên khu vực, ASEAN đề cao trách nhiệm với cộng đồng, toàn diện trong tiếp cận, bao trùm trong triển khai. Trong môi trường quốc tế chuyển động không ngừng, thuận lợi thách thức đan xen, các nhà lãnh đạo ASEAN đều gắn lợi ích của cộng đồng, người dân ASEAN song hành cùng lợi ích của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các nước thành viên ASEAN nhận thức chung: cần hợp tác và đồng thuận trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cũng như đặt ra những tiêu chuẩn tối thiểu chung đối với ưu đãi thuế và ưu đãi phi thuế trong khu vực, để hướng tới mục tiêu chung xây dựng một ASEAN bền vững và tự cường. Chính phủ các nước ASEAN quan tâm và triển khai hiệu quả các thỏa thuận liên kết kinh tế; rà soát, tháo gỡ những rào cản trong thương mại và đầu tư, thuận lợi hóa và hỗ trợ các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong ngoài ASEAN khai thác thị trường khu vực.

Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay

Một là, Việt Nam cần vận dụng tối đa các cơ hội đưa lại từ việc ký kết các hiệp định kinh tế với các đối tác chiến lược của ASEAN như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU… để phát triển kinh tế, song phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Quan điểm này đã được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: “Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý...”; “Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(7); “Xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế”(8). Việt Nam cần nhanh chóng cải cách các cơ cấu kinh tế, cơ chế chính sách, thể chế theo đúng nguyên tắc và thông lệ quốc tế, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế số, chú trọng hoàn thiện thể chế chính sách phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thông lệ quốc tế, phát triển hạ tầng…

Kinh tế thế giới có thể còn chịu ảnh hưởng lớn do đại dịch Covid-19, các nền kinh tế lớn tiếp tục điều chỉnh chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Vì vậy, Việt Nam nhận thức “xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, tạo sức bứt phá, nâng cao nâng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”(9). Việt Nam tích cực chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện, cơ sở hạ tầng, hệ thống Logistics, năng lực quản trị của Nhà nước và doanh nghiệp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nguồn nhân lực có trình độ, điều kiện làm việc của công nhân... để thu hút FDI từ bên ngoài. Việt Nam đã và đang tạo cơ chế ưu đãi đầu tư phù hợp với đặc điểm của các đối tác, ngành có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn với ngành sản xuất, chế tạo của các đối tác có trình độ khoa học công nghệ cao, Việt Nam chú ý xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương thức PPP, cho phép doanh nghiệp nước ngoài góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam; xem xét mở rộng hơn nữa cơ chế ưu đãi cho các công nghệ tiên tiến cũng như các doanh nghiệp mở rộng đầu tư với quy mô lớn; xây dựng chuỗi sản xuất chứ không chỉ cho một doanh nghiệp; đẩy mạnh hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp nước ngoài trong các lĩnh vực như phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển... Việt Nam là thành viên của ASEAN, đã tham gia ngày càng sâu vào các chuỗi cung ứng toàn cầu như RCEP, CPTPP và EVFTA… đang trở thành điểm đến được Nhật Bản chú ý trong các thỏa thuận thương mại hiện nay.

Ba là, Việt Nam tiếp tục chủ động dẫn dắt ASEAN đoàn kết, thống nhất, tăng uy tín khu vực và toàn cầu

Đây là “lối ra” thế giới của Việt Nam. Việt Nam cần có những nỗ lực mới, góp phần củng cố đoàn kết và phát triển trong ASEAN, coi đó như một hướng chiến lược ưu tiên trong quan hệ quốc tế. Việt Nam tiếp tục tích cực và chủ động hơn trong các cơ chế hợp tác tiểu vùng (cơ chế hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, cơ chế tam giác tăng trưởng Campuchia - Lào - Việt Nam); đồng thời tham gia vào các tiến trình hợp tác Đông Á mở rộng. Đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, là nước thành viên trong ASEAN, Việt Nam cần thực hiện hiệu quả “Quỹ ứng phó Covid-19 của ASEAN” và chủ động với chiến lược ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp của ASEAN. Qua đó, nhận thức được kinh tế - y tế như một lĩnh vực kinh tế chiến lược quan trọng hiện nay. Cần có chiến lược phát triển cho ngành dược liệu, ngành thiết bị và bảo hộ y tế thành những ngành kinh tế đa dạng, vừa phục vụ nhu cầu trong nước, vừa có thể xuất khẩu, vừa tham gia hỗ trợ các hoạt động đối ngoại và nhân đạo quốc tế.

Năm 2020, Việt Nam đã thành công trong việc giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy một thông điệp thống nhất cho ASEAN trong các vấn đề khu vực. Việt Nam đã huy động được năng lực hành động tập thể của khối, đích đến cuối cùng của “vai trò trung tâm kinh tế” mà ASEAN đặt ra chính là các nước thành viên phát triển bền vững, người dân ASEAN không ai bị bỏ lại phía sau.

Để tạo dựng “vai trò trung tâm” trong các cơ chế hợp tác kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ASAEN cần tiếp tục đề cao đoàn kết, tích cực triển khai thành công các Kế hoạch tổng thể thực hiện “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN - 2025” và “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025”. Dưới góc độ hợp tác kinh tế, hiện nay ưu tiên chính của ASEAN đều hướng tới thúc đẩy hội nhập và kết nối các nền kinh tế trên thế giới, làm sâu sắc quan hệ của ASEAN với cộng đồng quốc tế vì hòa bình và phát triển bền vững, và nâng cao năng lực của ASEAN về thể chế tổ chức và khả năng ứng phó.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2021

(1) Hoa Kỳ là đối tác kinh tế và đối tác phát triển quan trọng của ASEAN, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/hoa-ky-la-doi-tac-kinh-te-va-doi-tac-phat-trien-quan-trong-cua-asean-624448/.

(2) ASEAN trở thành đối tác hàng đầu của Trung Quốc, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/asean-tro-thanh-doi-tac-thuong-mai-hang-dau-cua-trung-quoc-325718.html.

(3) Mạnh Hùng: Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn thứ tư của ASEAN, http://dangcongsan.vn/thoi-su/nhat-ban-hien-la-doi-tac-thuong-mai-lon-thu-tu-cua-asean-550242.html.

(4) Song Minh: Chính thức nâng cấp quan hệ ASEAN - EU lên cấp đối tác chiến lược, https://laodong.vn/the-gioi/chinh-thuc-nang-cap-quan-he-asean-eu-len-doi-tac-chien-luoc-859084.ldo.

(5) Trung CA: ASEAN, EU nâng cấp quan hệ  đối tác chiến lược, https://www.qdnd.vn/doi-ngoai/doi-ngoai/asean-eu-nang-cap-quan-he-len-doi-tac-chien-luoc-645449.

(6) TTXVN: Đưa quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Hàn Quốc phát triển thực chất, https://www.vietnamplus.vn/dua-quan-he-doi-tac-chien-luoc-aseanhan-quoc-phat-trien-thuc-chat/676629.vnp.

(7), (8), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.283, 284, 131.

TS Trịnh Thị Hoa

Viện Quan hệ quốc tế,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền