Trang chủ    Thực tiễn    Một số kinh nghiệm trong công tác kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm của các huyện ủy thành phố Hải Phòng
Thứ tư, 26 Tháng 9 2018 16:03
5801 Lượt xem

Một số kinh nghiệm trong công tác kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm của các huyện ủy thành phố Hải Phòng

(LLCT) - Trong những năm qua, các ủy ban kiểm tra huyện ủy ở thành phố Hải Phòng luôn xác định kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm có tác dụng quan trọng đối với việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Trong thực hiện nhiệm vụ này, bước đầu rút ra năm kinh nghiệm có giá trị. Điều này có tác động rất lớn đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, giữ vững nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện trên địa bàn thành phố trong thời gian tới.

1. Công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm

Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát; là giải pháp quan trọng giúp tổ chức đảng, đảng viên kịp thời nhận rõ ưu điểm để phát huy, đồng thời khắc phục hạn chế, khuyết điểm; không để khuyết điểm trở thành vi phạm, vi phạm ít nghiêm trọng thành vi phạm nghiêm trọng, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người.

Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26-7-2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nêu rõ: “Khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên là khi có những thông tin, tài liệu thu thập được đối chiếu với các quy định của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, với chính sách, pháp luật của Nhà nước có căn cứ cho thấy tổ chức đảng hoặc đảng viên đó không tuân theo, không làm hoặc làm trái ”. Theo đó, khi có dấu hiệu vi phạm chỉ mới là hiện tượng, chưa phải là bản chất nên khi ủy ban kiểm tra tiến hành kiểm tra thì chưa thể kết luận là tổ chức đảng hoặc đảng viên được kiểm tra là có vi phạm. Chỉ khi nào kết quả kiểm tra cung cấp đủ căn cứ để kết luận có vi phạm thì tổ chức đảng hoặc đảng viên đó mới là có vi phạm, cần xem xét để có hình thức xử lý kỷ luật. Còn khi chưa được cấp có thẩm quyền kiểm tra kết luận thì các hành vi có biểu hiện sai trái của tổ chức đảng hoặc đảng viên chỉ được xem là “có dấu hiệu vi phạm”. Điều này cũng phù hợp với một trong những nguyên tắc cơ bản trong nền tư pháp hiện đại là “suy đoán vô tội”.

Như vậy, nội hàm khái niệm công tác kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm được thể hiện ở các nội dung sau:

- Xác định đúng chủ thể và đối tượng kiểm tra: Chủ thể kiểm tra gồm những tổ chức đảng có thẩm quyền sau đây: cấp ủy, ủy ban kiểm tra, chi bộ là chủ thể kiểm tra; trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng. Đối tượng kiểm tra là: những đảng viên hoặc tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm.

- Nội dung vi phạm: Điểm 1 Điều 32 Điều lệ Đảng xác định ủy ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ: Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Nói cách khác, các dấu hiệu vi phạm của đảng viên hoặc tổ chức đảng đã được Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước quy định, không có ngoại lệ.

- Mức độ của dấu hiệu vi phạm:

Dấu hiệu vi phạm và khái niệm vi phạm liên quan chặt chẽ với nhau, song không đồng nhất. Dấu hiệu vi phạm và vi phạm thuộc cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, trong đó vi phạm là bản chất, dấu hiệu vi phạm là hiện tượng. Tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau nhưng hiện tượng không bao giờ trùng khớp hoàn toàn với bản chất mà có thời điểm hiện tượng phản ánh xuyên tạc bản chất. Đây là cơ sở phương pháp luận giúp cho chủ thể kiểm tra xác định được dấu hiệu vi phạm, mức độ vi phạm, hoặc chưa vi phạm để xem xét, kết luận chính xác các dấu hiệu vi phạm. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm không có nghĩa là đảng viên được kiểm tra đã có vi phạm. Nếu tuyệt đối hóa đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (hiện tượng) là chưa có vi phạm gì, hoặc đã vi phạm (bản chất) đều không chính xác. Dấu hiệu vi phạm của đảng viên được biểu hiện ở các mức khác nhau: Có thể dấu hiệu vi phạm mới dừng lại ở khuyết điểm, vi phạm ít nghiêm trọng, vi phạm nghiêm trọng, vi phạm đặc biệt nghiêm trọng...  Cũng có thể, qua kiểm tra dấu hiệu vi phạm kết luận đảng viên không có vi phạm. Hoặc mức độ của dấu hiệu vi phạm mới manh nha, khởi phát nhưng cũng có thể dấu hiệu vi phạm đó tiềm ẩn chiều hướng sẽ dẫn tới vi phạm, thậm chí đã vi phạm. Thời gian biểu hiện, dấu hiệu vi phạm có thể mới xảy ra hoặc xảy ra từ lâu, đến nay mới bộc lộ qua hiện tượng được lặp đi lặp lại.

Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp, kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nhưng thực chất là kiểm tra vi phạm vì hành vi vi phạm đã rõ, đã xảy ra, có vụ việc đã diễn ra trong thời gian dài. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho ủy ban kiểm tra các cấp là phải chủ động nắm tình hình, phát hiện chính xác dấu hiệu vi phạm, khi đã phát hiện chính xác dấu hiệu vi phạm thì phải tiến hành kiểm tra ngay; nếu để xảy ra vi phạm mới tiến hành kiểm tra thì không bảo đảm tính phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm ngay từ khi mới manh nha.

2. Công tác kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm của các huyện ủy Hải Phòng

Hải Phòng là trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ của vùng duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng có 7 quận và 8 huyện. Các huyện gồm có: Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, An Lão, An Dương, Thủy Nguyên, Cát Hải, Bạch Long Vĩ; dân số khoảng 1,13 triệu người, chiếm 53,9% dân số của thành phố; 143 xã và 10 thị trấn. Các đảng bộ huyện ở thành phố Hải Phòng có tổng số 48.692 đảng viên sinh hoạt tại 490 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có: 208 đảng bộ cơ sở (153 đảng bộ xã, thị trấn), 282 chi bộ cơ sở.  Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong những năm qua cho thấy: trên 70% tổ chức đảng tham gia phân loại đạt trong sạch, vững mạnh; số tổ chức đảng hoàn thành nhiệm vụ chiếm 6%. Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt 18,1%; 3,5% đảng viên vi phạm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ(1).

Nhận thức rõ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm có vai trò quan trọng đối với việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên; ngăn ngừa, phát hiện các khuyết điểm, sai phạm và kịp thời xử lý những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng; giúp tổ chức đảng quản lý đảng viên thấy rõ vai trò, trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục và kiểm tra đảng viên, trong những năm qua, công tác kiểm tra của các huyện ủy thành phố Hải Phòng đã quán triệt, bám sát quy định của Điều lệ Đảng, sự hướng dẫn của Ủy ban kiểm tra Thành ủy và Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nên đã thu được kết quả bước đầu đáng khích lệ, có tác động nhất định đến nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện trên địa bàn thành phố.

Nhiệm kỳ 2010-2015, ủy ban kiểm tra các cấp trong toàn Đảng bộ Thành phố Hải Phòng đã kiểm tra 383 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Trong đó, Ủy ban Kiểm tra Thành uỷ: 29; ủy ban kiểm tra quận, huyện ủy và tương đương: 156; ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở: 198. Trong số đảng viên được kiểm tra có 197 là cấp uỷ viên các cấp (chiếm 51,4% số đảng viên được kiểm tra). Qua kiểm tra đã khẳng định 313 đảng viên có vi phạm (chiếm 83,69% tổng số đảng viên được kiểm tra), vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật là 163 trường hợp (chiếm 42,6 % số đảng viên được kiểm tra)(2).

Các ủy ban kiểm tra huyện ủy ở thành phố Hải Phòng đã tham mưu cấp ủy quyết định ban hành quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra huyện ủy với các cơ quan, ban, phòng, ngành của huyện có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ và thi hành kỷ luật đảng như: Văn phòng cấp ủy; Văn phòng HĐND - UBND huyện; các ban Đảng của huyện ủy; Đảng ủy Công an huyện; Đảng ủy Quân sự huyện; phòng Thanh tra; Tư pháp; Viện Kiểm sát; Tòa án; Mặt trận Tổ quốc huyện;... Qua đó, trao đổi, cập nhật thông tin để phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm và kịp thời tiến hành kiểm tra. Các ủy ban kiểm tra huyện ủy đều ban hành quyết định phân công nhiệm vụ, phụ trách địa bàn cho các ủy viên Ủy ban Kiểm tra.

Các huyện ủy đều chú trọng kiểm tra đối với những cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp, kể cả ủy viên ban thường vụ cấp ủy, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, cán bộ trong diện nguồn quy hoạch ở chức vụ cao hơn, cán bộ trẻ có khả năng phát triển cao hơn ở những nhiệm kỳ tiếp theo; cán bộ có dư luận xấu hoặc có một trong các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mức đáng báo động, nghiêm trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra của các huyện ủy trên địa bàn thành phố Hải Phòng vẫn còn một số khuyết điểm, yếu kém. Một số ủy ban kiểm tra còn lúng túng, bị động cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, nhất là chưa chủ động khảo sát nắm thông tin, nhận diện dấu hiệu vi phạm. Việc xác định đối tượng, nội dung kiểm tra còn thiếu cụ thể, chưa kịp thời, kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế, nên chất lượng, hiệu quả một số cuộc kiểm tra chưa cao. Hiệu quả kiểm tra đối với đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp, những đảng viên có chức vụ, quyền hạn nắm giữ các lĩnh vực quan trọng về kinh tế còn thấp... Chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nhất là chưa đẩy lùi được tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện trên địa bàn thành phố.

 Nguyên nhân chủ yếu là do một số huyện ủy còn thiếu chủ động, không nắm chắc diễn biến tư tưởng của đảng viên để kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm ngay từ khi mới manh nha; chưa khắc phục được những biểu hiện hữu khuynh, né tránh, ngại va chạm,... thậm chí còn thờ ơ khi có nguồn thông tin phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ này chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm mà Điều lệ Đảng qui định.

3. Một số kinh nghiệm

Qua thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của các huyện ủy ở Thành phố Hải Phòng có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu như sau:

Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo các ủy ban kiểm tra huyện ủy chủ động nắm tình hình, phát hiện chính xác, kịp thời dấu hiệu vi phạm ngay từ lúc mới manh nha

Phải có biện pháp, giải pháp cụ thể để chủ động nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, dựa trên cơ sở phân tích, sàng lọc thông tin để xác định đúng và trúng nội dung, đối tượng có dấu hiệu vi phạm và quyết định kiểm tra kịp thời, đạt yêu cầu, mang lại hiệu quả thiết thực, tránh tình trạng chạy theo thành tích, số lượng nên làm lướt, mang lại hiệu quả thấp, không có tác dụng giáo dục, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm. Nội dung kiểm tra chủ yếu tập trung vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc được nhân dân phản ánh, dư luận xã hội quan tâm... Đối tượng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm chủ yếu tập trung đối với cán bộ lãnh đạo, những người có chức, có quyền, những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, lãng phí... Chẳng hạn trong quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính ngân sách, đất đai, vốn sự nghiệp, vốn thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia... Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm của đảng viên phải tuyệt đối bảo mật thông tin, không được gây tâm lý hoang mang, bất ổn cho đối tượng kiểm tra. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng kiểm tra trên tinh thần đồng chí, đồng đội thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, không định kiến cá nhân, xa lánh, cũng không vị nể, bốc đồng tiết lộ thông tin quá sớm khi chưa có kết luận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Thứ hai, trong quá trình kiểm tra phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc, phương pháp công tác đảng và quy trình, thủ tục do Điều lệ Đảng quy định

Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng và tập trung dân chủ là nguyên tắc lãnh đạo cơ bản của Đảng, do đó trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, các chủ thể kiểm tra phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn trung thực, công tâm, khách quan, công khai minh bạch, tôn trọng ý kiến của tập thể. Trong quá trình thẩm tra, xác minh cũng như đóng góp ý kiến trong các cuộc hội nghị tổ chức đảng, chi bộ quản lý đảng viên được kiểm tra phải bảo đảm đúng phương pháp công tác đảng, chủ yếu lấy giáo dục, thuyết phục, động viên để phát huy tối đa tinh thần tự giác chịu trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên, không nên quá nặng nề tác phong hành chính, tạo áp lực căng thẳng, dùng lời lẽ nặng nề, hăm dọa hoặc xúc phạm đối với đảng viên được kiểm tra.

Cần tránh xu hướng hành chính hóa phương pháp, quy trình kiểm tra; biểu hiện dễ thấy là máy móc, vận dụng thiếu sáng tạo. Hiệu quả của cuộc kiểm tra cao hay thấp là tùy thuộc rất lớn vào cán bộ kiểm tra có nắm vững nguyên tắc, phương pháp và quy trình hay không. Phương pháp, quy trình kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm phải gắn với nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, tính chất công tác đảng. Trong quá trình tổ chức thực hiện cần bám sát quy trình, nghiệp vụ công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm bảo đảm đủ 3 bước theo quy định, trong đó đặc biệt chú ý làm tốt bước chuẩn bị và bước tiến hành. Công tác thẩm tra, xác minh phải được tiến hành một cách cẩn trọng, khoa học và chặt chẽ bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, trung thực, chính xác, không định kiến cá nhân, tình cảm riêng tư, thiên vị...

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cấp huyện và cơ sở có đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có dũng khí và tinh thông nghiệp vụ

Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, thì đối tượng kiểm tra chủ yếu là cán bộ có chức, có quyền, có vị thế xã hội. Do đó, đòi hỏi phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ kiểm tra (kể cả cấp huyện và cơ sở) có phẩm chất đạo đức trong sáng, đủ năng lực, trình độ; có bề dày kinh nghiệm và đặc biệt quan trọng là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, chịu được áp lực tâm lý trong khi làm nhiệm vụ, có dũng khí, tinh thông nghiệp vụ, dám thẳng thắn đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái đúng và phải biết giữ mình trước sự cám dỗ của đồng tiền.

Bản lĩnh người cán bộ kiểm tra ở đây được hiểu dưới góc độ kiên định lập trường quan điểm giai cấp công nhân, lập trường tư tưởng vững vàng; rèn luyện tinh thần thép của người cộng sản với ý thức kỷ luật cao. Dũng khí vừa là yêu cầu, vừa là phẩm chất cần có của cán bộ kiểm tra. Cán bộ kiểm tra có dũng khí cao thì càng có cơ sở đấu tranh với những đảng viên tìm cách biện bạch, che giấu khuyết điểm. Dũng khí của cán bộ kiểm tra được thể hiện qua tính chiến đấu trong công tác được phát huy sẽ tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh của tập thể chi bộ, cấp ủy. Trong một tập thể tổ chức đảng đoàn kết, có ý thức đấu tranh cao thì sẽ hậu thuẫn cho cán bộ kiểm tra. Ngược lại, một tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, thủ tiêu đấu tranh tự phê bình và phê bình, thậm chí còn làm chỗ dựa cho những đảng viên tiêu cực, đối phó với công tác kiểm tra thì cán bộ kiểm tra gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

Thứ tư, khi tiến hành kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải làm tốt công tác tư tưởng cho đối tượng được kiểm tra

Khi tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm, đối tượng kiểm tra thường có diễn biến tâm lý phức tạp, cho rằng mình “bị kiểm tra” là đã có vấn đề, nếu “bị kiểm tra” thì mất uy tín, thể diện, gặp nhiều khó khăn trong công tác, thậm chí lo sợ bị cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng... Bởi vậy thường có biểu hiện lo lắng, hoang mang, thậm chí nhiều trường hợp còn tìm cách đối phó, gây trở ngại cho công tác kiểm tra. Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra cần phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đảng viên, tổ chức đảng trước, trong và sau kiểm tra. Sự khai thông về tư tưởng sẽ làm cho đối tượng vơi đi tâm lý căng thẳng, mặc cảm, khắc phục cách nhìn thiên lệch một chiều, định kiến về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và coi việc tiến hành kiểm tra là công việc thường xuyên của ủy ban kiểm tra các cấp do Điều lệ Đảng quy định, mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Mục đích chính của kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm là để xem xét, kết luận làm rõ đúng, sai, kịp thời phát hiện ngăn ngừa không để khuyết điểm trở thành vi phạm, vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, vi phạm ít nghiêm trọng trở thành nghiêm trọng, chứ không phải kiểm tra là để bới móc khuyết điểm, trừng trị, kỷ luật. Bên cạnh đó, cần kịp thời đề xuất biểu dương, khen thưởng đối với tập thể hoặc cá nhân làm tốt. Công tác tư tưởng phải hướng vào đánh thức tính tự giác, thành khẩn ở đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong việc tự phê bình, tiếp thu ý kiến phê bình, trình bày đầy đủ, trung thực các sai phạm khuyết điểm của mình trước chủ thể kiểm tra. Hiệu quả của công tác tư tưởng không chỉ dừng lại ở việc tự giác tự phê bình, tiếp nhận các ý kiến phê bình mà còn có ý thức khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, không tái phạm, không khiếu nại và không tố cáo ở đảng viên được kiểm tra. Không chỉ làm tốt công tác tư tưởng cho đối tượng kiểm tra mà còn làm tốt công tác tư tưởng cho tổ chức đảng quản lý đảng viên để cùng làm tốt công tác tư tưởng cho đối tượng được kiểm tra.

Thứ năm, xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ gắn với phát huy vai trò tham gia đóng  góp ý kiến xây dựng Đảng của nhân dân

Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gắn với phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng là quyết tâm chính trị lớn đã được Đảng ta hiện thực hóa bằng Quyết định 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Mặt khác, thực hiện tốt quy chế dân chủ là điều kiện để thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ đó, đặt ra yêu cầu tổ chức đảng, chính quyền cơ sở phải có cơ chế cụ thể để nhân dân được tham gia góp ý, giám sát đối với những quy định, quyết định, phương hướng, chính sách của tổ chức mình; làm rõ trách nhiệm quyền lợi, nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, nhân dân lao động. Môi trường dân chủ, minh bạch sẽ tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhất là về phẩm chất đạo đức, lối sống và kịp thời phản ánh về các dấu hiệu vi phạm của đảng viên cho tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

________________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luân chính trị số 7 -2018

(1) Thành ủy Hải Phòng: Báo cáo tổng kết công tác Xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2010- 2015.

(2) Ủy ban kiểm tra Thành ủy Hải Phòng: Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2010- 2015.

PGS, TS Lê Văn Cường

Viện Xây dựng Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Đinh Văn Nhanh

Huyện ủy Tiên Lãng, Thành phố Hải Phòng

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền