Trang chủ    Thực tiễn    Giải pháp đẩy mạnh truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số
Thứ ba, 24 Tháng 12 2019 16:21
3400 Lượt xem

Giải pháp đẩy mạnh truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số

(LLCT) -  Trong những năm qua, hoạt động truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS) đã đạt được nhiều thành tựu, giúp cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho người dân, tạo ra bước chuyển biến rõ nét về nhận thức, đổi mới tư duy, khơi dậy ý chí phấn đấu vươn lên phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, tỷ lệ người được tiếp nhận thông tin chính thống chưa cao, vẫn còn một số người chưa nghe và nói được tiếng phổ thông... Vì vậy, cần nghiên cứu, làm rõ tình hình, những vấn đề đặt ra và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm đẩy mạnh truyền thông, xây dựng cuộc sống giàu đẹp, văn minh ở vùng DTTS.

 

1. Tình hình truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số

Đồng bào DTTS đa số sinh sống ở miền núi, vùng cao, vùng xa, trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, nên việc tiếp cận thông tin cũng có những khác biệt so với các vùng đồng bằng và các khu vực khác. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, 86% người dân thường xuyên xem truyền hình; 30% nghe đài, 28% đọc báo. Trong đó, 80% công chúng xem/đọc báo chí vì nhu cầu văn hóa, giải trí; 73% quan tâm thông tin về sản xuất nông nghiệp; trên 55% quan tâm tin tức trong nước, chỉ 15% quan tâm thông tin quốc tế; gần 40% quan tâm thông tin về chính sách, pháp luật, nhất là chính sách liên quan đến đồng bào; 27% theo dõi các thông tin về điển hình tiên tiến làm kinh tế giỏi; 28% quan tâm thông tin về y tế, chăm sóc sức khỏe; 25% quan tâm thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật; 42% quan tâm đến thông tin xóa đói giảm nghèo; 9% quan tâm về kinh tế, thị trường giá cả, kinh doanh...(1).

Thời gian qua, các cơ quan báo chí đã tích cực xây dựng các chương trình, chuyên mục hướng tới công chúng là người DTTS, đồng thời giới thiệu, quảng bá tiềm năng kinh tế, du lịch của vùng DTTS. Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân, báo chí các tỉnh là những đơn vị đi đầu trong truyền thông ở vùng đồng bào DTTS. Từ năm 1991 đến nay, Nhà nước đã cấp phát báo miễn phí cho đồng bào vùng đặc biệt khó khăn (hiện nay có 19 sản phẩm), Đài Tiếng nói Việt Nam phát 12 thứ tiếng dân tộc, kênh truyền hình VTV5 phát sóng 22 thứ tiếng dân tộc, sóng phát thanh và truyền hình đã phủ sóng đến trên 95% số xã trên cả nước, internet cũng được lắp đặt ở hầu hết các xã. Tuy nhiên, các chương trình truyền hình, phát thanh, báo in ở Trung ương được đồng bào DTTS tiếp cận nhiều hơn so với các chương trình địa phương.

Hệ thống truyền thông trực tiếp ở cơ sở vẫn đang dần được củng cố và phát triển. Ở hầu hết các thôn, bản xa xôi, mạng điện thoại đã được tăng cường, loa truyền thanh, nhà văn hóa thôn, bản, ấp là nơi cung cấp thông tin thường xuyên, thiết thực cho đồng bào. Hoạt động tuyên truyền miệng được đề cao thông qua già làng, trưởng bản, người uy tín, đội ngũ báo cáo viên, bộ đội biên phòng, giáo viên, cán bộ y tế. Việc treo nhiều panô, áp phích, phát băng đĩa, tờ rơi... đã góp phần tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn đồng bào thực hiện pháp luật, chính sách mới, xây dựng lối sống văn hóa, bảo vệ môi trường, khuyến học, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội truyền thống cũng là dịp lồng ghép truyền thông chính sách mới rất tốt. Phần lớn người DTTS thích xem/nhìn trực quan, sinh động nên dễ tiếp thu thông tin mới trong những dịp lễ hội, văn nghệ, chiếu phim, diễn kịch...

Như vậy, hiện nay từ Trung ương đến địa phương, chúng ta đã có một hệ thống truyền thông cho vùng DTTS khá hùng hậu, với sự tham gia của các cơ quan báo chí lớn nhất cả nước, với đầy đủ các loại hình, thể loại, chuyên mục, chương trình dành riêng cho người DTTS. Nhà nước đã dành khoản kinh phí lớn để cấp phát báo miễn phí đến các vùng DTTS và miền núi đặc biệt khó khăn. Nhiều đài, báo tỉnh viết/phát bằng tiếng dân tộc. Trên các trang mạng xã hội cũng xuất hiện nhiều bài viết hoặc đăng lại các bài đã phát trên báo chí; hệ thống loa, đài truyền thanh, panô, áp phích, khẩu hiệu, băng đĩa, phim ảnh, sách... đã phát huy vai trò cung cấp thông tin cho đồng bào DTTS. Tuy nhiên, hiệu quả truyền thông chưa cao, mức độ tiếp nhận thông tin của đồng bào chưa tương xứng với nguồn lực mà chúng ta đầu tư trong những năm qua.

2. Một số vấn đề đặt ra

Thứ nhất, hiện nay, số lượng cơ quan báo chí truyền thông phục vụ nhu cầu thông tin cho vùng DTTS khá nhiều, được xây dựng thành hệ thống, có sự chỉ đạo, quản lý thường xuyên, rộng khắp từ Trung ương đến địa phương, tuy nhiên hiệu quả chưa cao.

Số lượng tác phẩm viết về DTTS lớn, nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế, cả về hình thức và nội dung. Hầu hết người viết về DTTS là người Kinh nên nhìn nhận từ bên ngoài, đôi lúc chủ quan, duy ý chí, vẫn còn định kiến khi viết về DTTS, điều đó thể hiện qua ngôn ngữ, cách tiếp cận vấn đề. Người DTTS xuất hiện trên báo chí, truyền thông đa số với hình ảnh nghèo đói, lạc hậu, thiếu hiểu biết về pháp luật và hành xử manh động. Số bài viết về người DTTS sáng tạo, năng động vươn lên làm giàu... không nhiều, chỉ chiếm hơn 30% bài viết. Vẫn còn những bài báo có cách hiểu sai lệch về phong tục tập quán người DTTS. Sự hiểu biết chưa đầy đủ, phiến diện đã làm cho hình ảnh của đồng bào DTTS sai lệch, thậm chí dung tục, chưa đánh giá đúng mức chất nhân văn của họ(2). Vẫn còn khuynh hướng thần bí hóa, lãng mạn hóa hoặc bi kịch hóa trong các bài viết về đời sống của đồng bào để kêu gọi tài trợ, đầu tư, không ít người vẫn giữ nhận thức phiến diện, coi thất học, thiếu kiến thức, cả tin, ngây thơ, dễ dãi, dễ bị lợi dụng... là đặc điểm của người DTTS.

Thứ hai, các bài báo, chương trình phát thanh, truyền hình về chủ đề DTTS tuy đã tăng về số lượng, nhưng nội dung vẫn còn khô cứng, nặng về tuyên truyền chính sách, dài dòng, ít chọn lọc, chưa biên tập lại cho phù hợp với đồng bào DTTS.

Ảnh báo chí thiếu tính thời sự, chất lượng chưa cao, chưa thực sự đặc sắc; số lượng ảnh chưa phong phú. Hệ thống chuyên trang, chuyên mục cũng chưa mang đậm bản sắc khi dành cho đồng bào DTTS. Thể loại trình bày còn đơn điệu, chủ yếu là dạng bài báo và bài phản ánh (65%), tin (20%), rất hiếm bài xã luận, bình luận, điều tra, phóng sự, ký chân dung... Lý do dẫn đến hạn chế này là do ít nhà báo là người dân tộc, nguồn tin khan hiếm, địa bàn xa xôi, đi lại khó khăn. Công tác định hướng tuyên truyền trong các chương trình chưa được chú trọng, nhiều vấn đề trong đời sống xã hội của DTTS như y tế, giáo dục lại ít được đề cập.

Thứ ba, mức độ đầu tư của Trung ương và địa phương cho công tác truyền thông khá lớn, nhưng tỉ lệ bài trên các báo Trung ương viết/nói về DTTS còn ít (5-10%), những bài phản ánh về nguồn lực địa phương, thu hút đầu tư, du lịch, bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống còn thiếu chiều sâu.

Một thực tế là để có bài viết hay, chất lượng về đề tài DTTS thì phải đi thực tế ở các vùng sâu, vùng xa, tuy nhiên do hạn chế về kinh phí nên phóng viên của các cơ quan báo chí ngại đi. Thông tin hiện nay vẫn chủ yếu từ trên xuống, thông qua các sự kiện liên quan đến DTTS; các tin, bài, hình ảnh về người DTTS được thể hiện đơn giản, mờ nhạt.

Các bài viết về di sản văn hóa, văn hóa nghệ thuật còn chưa sâu, chưa định hướng cộng đồng nhận thức về tinh hoa văn hóa và cần phát huy như thế nào trong điều kiện mới. Còn ít bài phản ánh giá trị của luật tục, nhất là những nội dung văn hóa răn dạy con người sống tu dưỡng đạo đức, thương yêu nhau... Những bài về bảo vệ môi trường, chống nạn khai thác bừa bãi tài nguyên, phá rừng... chưa được quan tâm đúng mức. Còn ít bài quảng bá tiềm năng, cơ hội hợp tác, đầu tư, nếu có cũng chỉ là đưa tin, ít phân tích, bình luận, so sánh về lợi thế của vùng DTTS; không có chuỗi thông tin mang tính chất chỉ dẫn. Việc quảng bá du lịch địa phương đã xuất hiện nhiều trên báo chí, truyền thông, nhưng chất lượng chưa cao, nội dung đơn điệu. Những bài viết phân tích chính sách, phản biện và tư vấn, hiến kế phát triển kinh tế - xã hội của các chuyên gia, nhà khoa học chưa nhiều, nhất là liên quan đến phát triển bền vững vùng DTTS. Nhiều thứ tiếng dân tộc chưa được phát trên Hệ phát thanh dân tộc VOV4 (như tiếng dân tộc Tày, Mường, Nùng). Thông tin phản biện xã hội về chính sách dành cho DTTS còn mờ nhạt.

Thứ tư, truyền thông trực tiếp chưa phát huy được hết tiềm năng, điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi thiếu nhà văn hóa, sân chơi thể thao, trang thiết bị cần thiết để phát triển sinh hoạt cộng đồng, nên các cuộc họp thôn, bản, ấp phải họp ở nhà riêng, không thể tập hợp đông người, thậm chí không theo định kỳ; các sinh hoạt cộng đồng thưa dần.

Một số nhà văn hóa ít thu hút được người dân đến do công tác quản lý điều hành không tốt, sách, báo không được cấp đầy đủ, không cập nhật thường xuyên. Việc tuyên truyền, thuyết phục của một số già làng, trưởng bản, người có uy tín, tuyên truyền viên, phát thanh viên còn chưa hiệu quả. Các hình thức panô, áp phích, khẩu hiệu, băng đĩa, phim ảnh tuyên truyền chính sách ở các vùng sâu, vùng xa còn ít.

3. Một số giải pháp và kiến nghị chính sách

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các vùng DTTS, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, nhất là thực tiễn Việt Nam thời kỳ đổi mới và của một số nước trên thế giới, tiến tới xây dựng và thông qua Luật Dân tộc. Trên cơ sở Luật Dân tộc, Chính phủ xây dựng hệ thống các văn bản, quy chế, quy định về vùng DTTS để thống nhất thực hiện trên cả nước. Trong các văn bản đó, phải thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển vùng DTTS, nhất là các vùng trọng điểm về kinh tế, an ninh, quốc phòng, khẳng định rõ đó là trách nhiệm của cả nước, là tình cảm của nhân dân cả nước đối với đồng bào DTTS, những người có công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong đó, công tác truyền thông phải đi trước một bước, phải xây dựng chiến lược truyền thông dài hạn, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí - truyền thông, đội ngũ cán bộ truyền thông cấp cơ sở... để tuyên truyền, giải thích cho đồng bào hiểu rõ, tin tưởng và tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, làm giàu cho quê hương, đất nước, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ hai, với tư cách là cơ quan phụ trách quản lý công tác dân tộc, Ủy ban Dân tộc phải là đầu mối xây dựng chiến lược truyền thông cho các vùng DTTS, trong đó phân công rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị. Ban Tuyên giáo Trung ương có bộ phận chuyên trách, định hướng các cơ quan báo chí truyền thông về vùng DTTS trong từng thời điểm cụ thể, phù hợp với từng vùng (khi nào thì nhấn mạnh về đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường...). Bộ Thông tin truyền thông kiểm tra, giám sát nội dung báo chí truyền thông viết về vùng DTTS, xử lý kịp thời những bài báo, bài viết có dấu hiệu vi phạm thuần phong mỹ tục, viết sai lệch về DTTS, kỳ thị người DTTS... Hằng năm, Ủy ban Dân tộc phải thảo luận và ký văn bản phối hợp công tác với các cơ quan báo chí ở Trung ương như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Nhân dân, Pháp luật Việt Nam... trong truyền thông về chủ đề DTTS; trong đó nhấn mạnh trách nhiệm chính trị của các cơ quan báo chí và các nhà báo trong thực hiện nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện cho vùng DTTS phát triển bền vững; từ đó xây dựng và thiết kế chuyên trang, chuyên mục về vùng DTTS; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tiếp nhận nhân sự chuyên trách mảng DTTS.

Thứ ba, các cơ quan báo chí nên phân công một số nhà báo, phóng viên chuyên trách viết về mảng nội dung DTTS, từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tự nghiên cứu để có vốn kiến thức chuyên sâu về DTTS, hoặc tuyển chọn nhà báo là người DTTS vào làm việc. Nâng cao chất lượng thông tin báo chí truyền thông về vùng DTTS, đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và hình thức, thể loại để phù hợp với nhu cầu và trình độ người dân vùng DTTS. Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các nhà báo viết về mảng đề tài DTTS vì đặc thù tư liệu ít và khó tìm hơn so với các mảng đề tài khác.

Thứ tư, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, nhất là những chuyên mục, thông tin dành cho vùng DTTS; tăng cường những bài phóng sự chuyên sâu; đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng kênh VTV5 để thu hút khán giả nhiều hơn. Chương trình cấp phát báo chí miễn phí đang triển khai, nhưng hiệu quả chưa cao, vì vậy cần chỉ đạo và nâng cao ý thức trách nhiệm của những người thực hiện - từ việc vận chuyển, chuyển giao báo đến tổ chức đọc báo ở thôn bản, để có nhiều người được đọc, nhất là người dân. Nâng cao chất lượng hệ phát thanh VOV4 và các chương trình phát thanh dành cho vùng DTTS, đầu tư xây dựng kịch bản hấp dẫn, thiết thực với đồng bào. Tiếp tục mở rộng mạng lưới internet ở vùng DTTS để đồng bào có điều kiện đọc báo điện tử, các cổng thông tin điện tử, sử dụng mạng xã hội. Khuyến khích đồng bào đọc, nhưng đồng thời phải hướng dẫn, chỉ rõ mặt trái của mạng xã hội, để phòng tránh tác hại của mạng xã hội, nhất là đối với thanh niên. Tổ chức Đoàn thanh niên ở các vùng DTTS phải phát huy vai trò trong vấn đề này.

Thứ năm, lãnh đạo các tỉnh ở vùng DTTS chỉ đạo các cơ quan báo chí truyền thông địa phương quan tâm hơn nữa đến người DTTS, đẩy mạnh quảng bá tiềm năng, thế mạnh của địa phương trên báo chí Trung ương nhằm thu hút đầu tư, du lịch, liên kết phát triển kinh tế - xã hội với các địa phương khác. Cần phối hợp tốt giữa báo chí cấp tỉnh, huyện với cấp xã và thôn, bản, ấp. Ở các vùng DTTS, hệ thống loa truyền thanh thôn, bản vẫn còn phát huy tốt vai trò, vào buổi sáng sớm và chiều tối, trước khi đi làm và sau khi đi làm về nhà, bà con rất thích nghe thông tin thông qua loa đài phát trực tiếp. Vì vậy, các địa phương nên đầu tư kinh phí để sửa chữa, lắp đặt mới ở các làng, bản, ấp (Hiện nay, số thôn ở vùng DTTS có loa truyền thanh chỉ đạt 50%).  Đồng thời, có chế độ thù lao thỏa đáng đối với cán bộ truyền thông cơ sở để họ yên tâm làm việc.

Thứ sáu, xây dựng mạng lưới cộng tác viên báo chí truyền thông ở các địa phương. Tuyển chọn những người có khả năng viết bài, có hiểu biết nhất định về báo chí, truyền thông; mở lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ năng chụp ảnh, quay phim, viết bài rồi gửi cho các cơ quan báo chí truyền thông. Đây là kinh nghiệm của Cộng hòa Áo, nơi Đài truyền hình OKTO (ở thủ đô Viên) chủ yếu phát các sản phẩm do các cộng tác viên không chuyên từ các cộng đồng người thiểu số gửi về, phản ánh chân thực mọi mặt cuộc sống tại các địa phương. Để có được các sản phẩm truyền thông tốt, các cơ quan báo chí phải có bộ phận chuyên trách kiên trì, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ các cộng tác viên từ các vùng DTTS (kể cả người Kinh). Chỉ có như vậy, thông tin về đồng bào DTTS mới đa dạng, phong phú, và thu hút được công chúng là người DTTS thích đọc báo, xem tivi, nghe đài.

Thứ bảy, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ truyền thông cho đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở, tiếp tục đầu tư xây dựng nhà văn hóa (sinh hoạt cộng đồng). Hàng năm nên tổ chức cuộc họp các già làng, trưởng bản, các cộng tác viên truyền thông để tổng kết, rút kinh nghiệm, đồng thời tập huấn, hướng dẫn kỹ năng truyền thông, thuyết trình. Mỗi thôn, bản phải có 1-2 người là hạt nhân truyền thông, là người hiểu biết, thông thạo tiếng phổ thông và tiếng dân tộc để phổ biến, kịp thời giải thích cho cộng đồng chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Hằng tháng, quý gửi cho họ tài liệu cần tuyên truyền, để họ thường xuyên cập nhật thông tin, có điều kiện nghiên cứu, kịp thời phổ biến, giải thích bằng ngôn ngữ DTTS cho cộng đồng.

Rà soát và củng cố hệ thống nhà văn hóa thôn, bản để người dân vùng DTTS có nơi tổ chức sự kiện, lưu giữ báo chí, sách; sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trao đổi thông tin, tình cảm, nguyện vọng, đồng thời truyền tải chủ trương, chính sách đến đồng bào... Xây dựng quy chế hoạt động và có cơ chế phù hợp về kinh phí, cơ sở vật chất để cán bộ phụ trách duy trì hoạt động thường xuyên của nhà văn hóa (sinh hoạt cộng đồng).

Thứ tám, khuyến khích các tổ chức, cơ quan đẩy mạnh truyền thông ở vùng DTTS, kế cả các doanh nghiệp, các NGO. Tuy nhiên, tăng cường kiểm tra giám sát để bảo đảm những thông tin hướng tới đồng bào DTTS là những thông tin chính thống, có giá trị nâng cao nhận thức và giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống văn minh. Kiên quyết ngăn chặn, xử lý các tổ chức lợi dụng dự án, chương trình hỗ trợ đồng bào để tuyên truyền kích động chống phá chính quyền, làm mất đoàn kết giữa các dân tộc, truyền đạo trái phép.

Cần lắp đặt thêm các trạm phát sóng truyền hình, phát thanh, mạng internet ở các vùng sâu, vùng xa, vùng lõm, mà hiện nay chưa có sóng hoặc sóng yếu. Trong bối cảnh các thế lực thù địch tăng cường sử dụng truyền hình và đài phát thanh, chất lượng âm thanh, hình ảnh rõ nét để tuyên truyền, kích động đồng bào, thì chúng ta phải đầu tư để giành lại công chúng, không để vì những yếu tố kỹ thuật mà đồng bào nhanh chóng hình thành thói quen thích nghe đài bên ngoài hơn là đài chính thống.

Thứ chín, sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực và kinh phí dành cho truyền thông vùng DTTS. Có thể nói, nguồn kinh phí Nhà nước đầu tư cho phát triển các vùng DTTS không nhỏ, trong đó có đầu tư cho truyền thông, nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao, còn chồng chéo, lãng phí, thất thoát. Vì vậy các cơ quan chức năng, nhất là Ủy ban dân tộc và các Ban Dân tộc các tỉnh cần rà soát, thẩm định các chương trình, dự án đã triển khai để tổng kết, rút kinh nghiệm. Việc cấp phát báo, radio miễn phí hiệu quả chưa cao, số lượng người đọc và nghe đài chưa nhiều, cần tính toán lại về số lượng và đối tượng cấp phát để đạt hiệu quả tối ưu. Phương thức hiệu quả và mang tính ổn định nhất là đào tạo, bồi dưỡng chính người DTTS trực tiếp tham gia làm công tác truyền thông. Đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ các đoàn thể cơ sở, nếu được trang bị kiến thức, hướng dẫn kỹ năng truyền thông, sẽ là những nhân tố truyền thông tích cực, vừa gắn với chức năng phổ biến chính sách, tập hợp hội viên của họ (như Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ...).

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2019

* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài: "Truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số, thực trạng và giải pháp", mã số CTDT.31.18/16-20 năm 2018-2019.

(1) Kết quả khảo sát của Đề tài quốc gia “Truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số, thực trạng và giải pháp”, mã số CTDT.31.18/16-20 năm 2018- 2019.

(2) Ý kiến của cán bộ và người dân qua thảo luận nhóm ở Sóc Trăng và Yên Bái, năm 2018.

Tài liệu tham khảo:

(1) Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc.

(2) Nguyễn Văn Lợi - Lưu Văn An (đồng chủ biên): Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý, Nxb Thông tấn, 2017.

(3) Đặng Thị Thu Hương: Truyền thông phát triển, truyền thông dân tộc - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2018.

(4) Báo cáo kết quả khảo sát công tác truyền thông của Đề tài quốc gia “Truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số, thực trạng và giải pháp”, mã số CTDT.31.18/16-20 tại các tỉnh/thành: Hà Nội, Sơn La, Yên Bái, Quảng Ninh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đắk Lắk, Gia Lai...

PGS, TS Lưu Văn An

          Học viện Báo chí và Tuyên truyền      

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền