Trang chủ    Thực tiễn    Việt Nam chiến đấu vì hòa bình, ổn định và hồi sinh đất nước Campuchia
Thứ hai, 14 Tháng 6 2021 11:35
2235 Lượt xem

Việt Nam chiến đấu vì hòa bình, ổn định và hồi sinh đất nước Campuchia

(LLCT) - Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi Việt Nam đưa Quân tình nguyện, chuyên gia sang giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, hồi sinh đất nước, song, đến nay vẫn còn những quan điểm cố tình xuyên tạc nghĩa cử trong sáng và sự hy sinh cao đẹp, tinh thần quốc tế cao cả của Việt Nam. Bài viết làm rõ lý do Quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam sang Campuchia, khẳng định tình đoàn kết chiến đấu giữa Việt Nam - Campuchia sẽ mãi mãi được lịch sử khắc ghi, không thể xuyên tạc. 

Ảnh: Minh họa

Từ khóa: chế độ diệt chủng, Pôn Pốt - Iêng Xary, Quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam, Việt Nam giúp Campuchia hồi sinh đất nước.

1. Về mục đích cuộc tiến công của Việt Nam sang Campuchia

Thứ nhất, đây là cuộc phản công tự vệ của Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary

Ngay sau khi lên nắm quyền lãnh đạo nhà nước Campuchia Dân chủ (17-4-1975), tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary đã tiến hành hàng loạt các hành động xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam: tiến đánh đảo Phú Quốc (3-5-1975); đánh chiếm đảo Thổ Chu (10-5-1975), bắt, giết hại hơn 500 đồng bào ta; di dời một số cột mốc biên giới ở tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk; đêm 30-4-1977, bất ngờ mở cuộc tấn công vào 14/16 xã biên giới tỉnh An Giang, tàn sát dân thường, phá hoại làng bản, trường học, các cơ sở sản xuất.... Theo báo Le Monde (Thế giới) của Pháp ngày 8-1-1978, Pôn Pốt công khai tuyên bố trên Đài Phát thanh Phnôm Pênh rằng: “Trong đời tôi, tôi hy vọng giải phóng Sài Gòn”... Ngày 13-1-1978, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia ra Chỉ thị về đường lối tiến hành chiến tranh toàn diện chống Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ IV Đảng Cộng sản Campuchia, Pôn Pốt đã xác định “... Mâu thuẫn Việt Nam - Campuchia là mâu thuẫn chiến lược sống còn, không thể điều hòa được, cũng không thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng biện pháp quân sự”(1). Tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xary đề ra đường lối chiến tranh, trong đó nêu rõ: “... Chiến tranh giữa ta và Việt Nam là lâu dài, có tính chất gặm nhấm, ta không đánh nó trước thì ta không thắng... Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn, thì có thể đánh 10, 15 đến 20 năm, thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam...”(2). Vì thế, ngày 23-12-1978, Pôn Pốt - Iêng Xary huy động 10/19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới Campuchia - Việt Nam, mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam. Đây là cuộc tiến công sang đất Việt Nam có quy mô lớn nhất của chính quyền Campuchia Dân chủ. Thực tế đó đã thể hiện rõ quan điểm, lập trường, tư tưởng kiên quyết chống và tiêu diệt Việt Nam của Pôn Pốt - Iêng Xary.

Trước các hành động xâm phạm nghiêm trọng lãnh thổ Việt Nam của chính quyền Campuchia Dân chủ, Đảng, Chính phủ Việt Nam vẫn kiên trì đề nghị giải quyết vấn đề bằng đàm phán. Nhưng đi ngược lại thiện chí của Việt Nam, chính quyền Pôn Pốt không chỉ khước từ, mà còn triệt để lợi dụng chủ trương đàm phán của Việt Nam, gây ra nhiều tổn thất to lớn cho nhân dân ta. Vì thế, ngày 31-12-1977, ngay sau khi Pôn Pốt công khai cuộc chiến tranh biên giới hai nước trước dư luận thế giới hòng tuyên truyền, vu khống, cô lập Việt Nam, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia, vạch rõ tội ác, âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari đối với Việt Nam, đồng thời khẳng định: Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Campuchia(3). Tháng 6-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp đánh giá tình hình ở biên giới Tây Nam và các hướng khác, khẳng định quyết tâm: “Kiên quyết phấn đấu giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới càng sớm càng tốt; phối hợp tác chiến quân sự, chính trị, ngoại giao, ra sức giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia chân chính đánh đổ tập đoàn phản động Campuchia”(4).

Đây là cuộc chiến Việt Nam buộc phải tiến hành vì tình đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia và để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, sự ổn định của khu vực.

Thứ hai, Việt Nam giúp nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng, đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary, thoát khỏi họa diệt chủng

Trong thời gian nắm quyền lãnh đạo Nhà nước Campuchia Dân chủ (từ 17-4-1975 đến 17-1-1979), tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary - Khiêu Xăm Phon đã gây ra hậu quả khủng khiếp đối với nhân dân, đất nước Campuchia trên tất cả các lĩnh vực. Chúng đề ra và thực thi những chính sách dã man, tàn bạo đến quái gở: Xóa bỏ tôn giáo, tiêu diệt có hệ thống các dân tộc thiểu số. Cưỡng bức di dân, phá vỡ tận gốc cơ sở gia đình, cơ sở xã hội. Dồn ép người dân vào các “công xã”, phải sống và làm việc trong môi trường bị hủy diệt cả về thể xác lẫn tâm hồn... Thanh trừng quân đội, tiêu diệt lực lượng chống đối với phương châm “Dù phải diệt thêm một triệu người nữa cũng kiên quyết làm, giết nhầm một kẻ vô tội còn hơn để sót một kẻ chống đối, trong gia đình, nếu một người ra rừng theo chống đối thì sẽ bị giết ba đời”(5). Tính từ tháng 12-1975 đến tháng 6-1977, trong các nhà tù ở Phnôm Pênh có khoảng 10 nghìn người đã bị giết hại(6). Đã có khoảng 1.000 trí thức từ nước ngoài trở về Campuchia, nhưng chỉ còn 85 người sống sót vì che giấu được tung tích(7). Dưới chế độ Pôn Pốt, đất nước Campuchia đã có 5.857 trường học, 796 bệnh viện, phòng thí nghiệm, 1.968 ngôi chùa, 108 đền thờ... bị phá bỏ; tàn sát 3.314.768 người; đưa đi mất tích gần 570.000 người; làm cho 141.848 người bị tàn phế; hơn 200.000 trẻ em bị mồ côi...(8). Đó là “tai họa khủng khiếp, là tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử loài người”(9), đất nước, nhân dân Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.

Thực tế nghiệt ngã đó buộc nhân dân Campuchia phải đứng lên chiến đấu thoát khỏi họa diệt chủng. Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia (thành lập 12-1978) và Hội đồng nhân dân Cách mạng Campuchia (thành lập 8-1-1979, do Hêng Xomrin làm Chủ tịch) đã kêu gọi, đề nghị Đảng, Nhà nước, quân đội Việt Nam giúp đỡ đánh đổ chế độ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi đó, Việt Nam vừa khắc phục những khó khăn trong nước, vừa nỗ lực cao nhất để giúp nhân dân Campuchia chống lại họa diệt chủng.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã giao nhiệm vụ cho các Quân khu 7, 5, 9, đồng thời quyết định thành lập các đơn vị, Đoàn chuyên gia trên các lĩnh vực để giúp đỡ nhân dân Campuchia về mọi mặt từ cứu đói, chữa bệnh, ổn định nơi ăn ở sinh hoạt, đào tạo cán bộ, huấn luyện quân sự, chính trị, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang, phối hợp chiến đấu với các lực lượng chống Pôn Pốt trên đất Campuchia...

Được sự giúp đỡ của Việt Nam, tháng 8-1975, có 1.943 người Campuchia chạy sang Việt Nam lánh nạn được ổn định sinh sống ở Gia Bốc, Gia Lai - Kon Tum(10). Ngày 12-5-1978, “Lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” - đơn vị tiền thân của Quân đội cách mạng Campuchia gồm 125 cán bộ, chiến sĩ được thành lập do Hun Xen làm Chỉ huy trưởng. Đó là những nhân tố quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng Campuchia từng bước đảm đương nhiệm vụ phối hợp với Quân tình nguyện Việt Nam đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân thoát khỏi họa diệt chủng.

Đến tháng 12-1978, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Việt Nam giành thắng lợi to lớn. Phong trào yêu nước, chống lại chế độ diệt chủng Pôn Pốt trong nhân dân Campuchia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Lực lượng của Pôn Pốt - Iêng Xary ngày càng lâm vào tình thế khó khăn, bất lợi. Trước tình hình đó và theo đề nghị giúp đỡ của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, phía Việt Nam xác định quyết tâm phản công đập tan cuộc tiến công xâm lược của quân Pôn Pốt ở biên giới phía Tây Nam, đồng thời “giúp lực lượng cách mạng Campuchia, bao vây tiêu diệt khối chủ lực, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não của địch ở Phnôm Pênh... thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh”(11). Các đơn vị quân đội Việt Nam đã phối hợp chiến đấu với lực lượng cách mạng Campuchia, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh ngày 7-1-1979, thành lập nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ngày 12-1-1979. Đến ngày 25-1-1979, nhân dân Campuchia tổ chức Lễ mừng chiến thắng giải phóng đất nước khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xary.

Thứ ba, Việt Nam giúp nhân dân Campuchia hồi sinh đất nước

Theo Hiệp ước Hòa bình, hữu nghị và hợp tác ký ngày 18-2-1979 giữa Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam đã tổ chức các Ban nghiên cứu, Đoàn chuyên gia và Quân tình nguyện để giúp đỡ Campuchia từng bước hồi sinh đất nước: Việt Nam giúp Campuchia trên tinh thần giúp bạn là tự giúp mình, cách mạng Campuchia phải do nhân dân Campuchia tự làm lấy; với nguyên tắc chuyển từng bước theo hướng ta làm giúp bạn, đến ta giúp, bạn làm, cuối cùng là bạn làm, ta giúp; và phương châm là dìu dắt, phối hợp, tạo điều kiện cho bạn trưởng thành, từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ.

Trong suốt 10 năm, Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam đã cùng nhân dân Campuchia từng ngày, từng giờ hồi sinh đất nước Campuchia: Về quân sự, Việt Nam vừa phối hợp cùng Campuchia chiến đấu tiêu diệt tàn quân Pôn Pốt, vừa tích cực giúp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng phát triển lực lượng vũ trang. Đến tháng 1-1989, Campuchia đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân với tổng số 128.746 người; trong đó bộ đội chủ lực là 48.183 người, bộ đội địa phương 80.863 người và 42.000 cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân... Xây dựng được bộ máy cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật... Xây dựng Trường Kỹ thuật Thông tin, Trường Hậu cần...(12). Về xây dựng chính quyền, Việt Nam giúp Campuchia xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ. Campuchia đã xây dựng, củng cố được hệ thống chính quyền cách mạng các cấp ở 21 tỉnh, thành phố, 169 huyện, thị trấn, 1.540 xã phường và 12.247 ấp(13). Cùng với đó là xây dựng hệ thống các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên... góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Về kinh tế, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã tổ chức cứu đói, từng bước giúp khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế. Tháng 6-1979, Campuchia có 2,4 triệu người bị đói, nạn đói đã đe dọa tới 60% dân số đất nước (khoảng 3,2 triệu người). Trước tình hình đó, Việt Nam đã nhanh chóng giúp vận chuyển 203.000 tấn lương thực của các nước viện trợ, trong đó Việt Nam giúp 45.000 tấn tới các địa phương(14); viện trợ cây, con giống... để nhân dân sản xuất. Nhờ đó, tới đầu năm 1981, nạn đói cơ bản được ngăn chặn. Đến năm 1984, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp được phục hồi, hàng trăm nhà máy, xí nghiệp đã được khôi phục và xây dựng mới. Về văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế được bảo đảm và từng bước phát triển. Đến năm 1982, Việt Nam đã hoàn thành 37 hạng mục công trình văn hóa giúp Campuchia... nhận đào tạo 409 học sinh, sinh viên; các trường chính trị Việt Nam hàng năm nhận khoảng 800 người... và giúp đào tạo tại Campuchia 1.500 sinh viên và hàng nghìn cán bộ học bổ túc văn hóa... Hệ thống giáo dục phủ rộng đến tận phum, xã. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh môi trường được quan tâm thực hiện. Mạng lưới y tế mở rộng khắp từ Trung ương đến các địa phương với trên 30 bệnh viện và 10.000 giường bệnh(15) ... Các thiết chế văn hóa - xã hội, truyền thống văn hóa dân tộc, thuần phong mỹ tục của Campuchia từng bước được phục hồi.

2. Lý do Quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam ở lại Campuchia trong 10 năm

Tại Pari, trong cuộc họp báo ngày 8-5-1979, luật sư R.Vên, Trưởng phái đoàn điều tra của Hội Luật gia dân chủ quốc tế khẳng định: “Trong giai đoạn đầu Quân đội Việt Nam đánh đổ quân đội Pôn Pốt xâm lấn lãnh thổ Việt Nam, đó là quyền tự vệ chính đáng của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 2, Quân đội Việt Nam giúp lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng đất nước. Đó là nghĩa vụ giúp các dân tộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc như đã được nêu trong Nghị quyết 26-25 của Liên Hợp quốc. Hiện nay, sự có mặt của Quân đội Việt Nam tại Campuchia là căn cứ vào Hiệp ước hữu nghị và hợp tác ký giữa hai nước ngày 18-2-1979”(16). Như vậy, việc Quân đội Việt Nam giúp cách mạng Campuchia là việc làm chính nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế, theo tinh thần quốc tế vô sản; xuất phát từ đề nghị, nguyện vọng tha thiết của nhân dân Campuchia. Đây là cơ sở quan trọng bảo đảm cho cuộc tiến công thắng lợi.

Trong bối cảnh đất nước Việt Nam còn muôn vàn khó khăn, lực lượng cách mạng Campuchia còn non yếu, lực lượng Pôn Pốt - Iêng Xary chưa bị tiêu diệt, vẫn còn sự hậu thuẫn, giúp đỡ của Trung Quốc và nước ngoài, phía Việt Nam đã có sự chuẩn bị kỹ về mọi mặt để bảo đảm việc giúp đỡ Campuchia có hiệu quả. Để đánh đổ tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xary, giải phóng Campuchia, chiến dịch phản công, tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam với lực lượng tham gia gồm 18 sư đoàn bộ binh thuộc ba quân đoàn (2, 3, 4), ba quân khu (5, 7, 9); các đơn vị binh chủng phòng không, không quân, hải quân; 600 xe tăng, xe bọc thép, 587 khẩu pháo các loại, 7.000 ô tô vận tải, 137 máy bay, 160 tàu thuyền chiến đấu. Tổng số quân tham gia khoảng 25 vạn(17). Để giúp Campuchia khắc phục hậu quả diệt chủng, từng bước hồi sinh đất nước, Việt Nam thành lập một Bộ chỉ huy thống nhất từ Trung ương đến các đơn vị, tổ chức cơ sở, các Ban tham mưu, nghiên cứu, các Đoàn chuyên gia, Quân tình nguyện ở mọi lĩnh vực. Ngày 7-9-1977, thành lập Khung tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Campuchia với phiên hiệu Đoàn 977; ngày 21-4-1978, Quân ủy Trung ương thành lập Ban phụ trách công tác Z (Campuchia), bí danh là Ban 10, do đồng chí Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Trưởng ban, thành lập Đoàn chuyên gia 478 (trực thuộc Ban 10) gồm các cán bộ cao cấp, trung cấp. Thành lập Ban công tác Z Trung ương (Ban B.68) ngày 16-6-1978 để giúp bạn xây dựng các tổ chức và cơ quan chính trị của Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp và đoàn thể quần chúng. Thành lập các đoàn chuyên gia như Đoàn A.40 giúp xây dựng khối kinh tế - xã hội - văn hóa; Đoàn 478 giúp xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chỉ đạo chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng; Đoàn K.79 giúp bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng an ninh... Bên cạnh đó còn có Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam, các Đoàn chuyên gia của các tỉnh, huyện, ban, bộ, ngành... cùng phối hợp giúp đỡ và thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.

Đoàn chuyên gia, Quân tình nguyện Việt Nam ở lại Campuchia hơn một thập niên, được lý giải bởi các lý do cơ bản sau:

Một là, để tiêu diệt tận gốc tàn quân Pôn Pốt vẫn đang tìm cách quay trở lại chống phá.

Mặc dù ngày 17-1-1979, thị xã cuối cùng là Cô Công đã được giải phóng, song, trên thực tế, tàn quân Pôn Pốt vẫn còn khoảng 4 vạn tên rút chạy vào vùng rừng núi trên biên giới Campuchia - Thái Lan, ẩn náu trong các khu vực địa hình hiểm trở và trà trộn trong dân. Cơ quan đầu não, hệ thống chỉ huy của Pôn Pốt vẫn được duy trì và còn khống chế được một số vùng nông thôn với dân số tương đối đông(18). Pôn Pốt vẫn âm mưu khôi phục lại chế độ độc tài, diệt chủng phản động. Chỉ hai ngày sau khi Thủ đô Phnôm Pênh giải phóng, Pôn Pốt đã tổ chức nhiều đợt tập kích, phục kích tấn công đánh chiếm thị trấn Uđông (cách Phnôm Pênh 60km), kho đạn Longvéc (cách Uđông 10km)... Mức độ đánh phá của quân Pôn Pốt ngày một tăng, tiếp tục gây ra nhiều vụ thảm sát nhân dân. Đến tháng 4-1988, Pôn Pốt - Iêng Xary vẫn chủ trương phải giành được 60-70 số phum, phát triển 20-30% lực lượng du kích mật trong các xã”(19)... Vì thế, Việt Nam vừa phải phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia chiến đấu để tiêu diệt tận gốc quân Pôn Pốt, vừa từng bước giúp bạn tiến tới đủ sức tự chiến đấu bảo vệ đất nước, nhân dân.

Hai là, giúp chính quyền cách mạng và nhân dân Campuchia đủ khả năng tự đứng vững

Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia sau giải phóng chưa đủ sức để bảo vệ thành quả cách mạng. Công cuộc xây dựng lại đất nước Campuchia gần như phải bắt đầu từ con số không. Vì thế, cùng với việc phải tiêu diệt tận gốc chế độ Pôn Pốt - Iêng Xary, công cuộc hồi sinh đất nước Campuchia không chỉ cần sự nỗ lực bền bỉ, phi thường về nhân, vật lực, mà còn cần phải có thời gian. Bởi thế, Quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam trong 10 năm đã giúp nhân dân Campuchia từ việc tổ chức đưa dân ở các nơi ẩn náu về lại quê hương ổn định cuộc sống, vệ sinh môi trường sinh sống, cứu đói, cứu đau, khám chữa bệnh, phòng dịch... đến xây dựng lực lượng vũ trang, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng lại các cơ sở văn hóa, trường học, bệnh viện, đào tạo cán bộ các lĩnh vực, xây dựng hệ thống chính quyền các cấp... Sự giúp đỡ chí tình, vô tư và đầy trách nhiệm đó đã từng bước giúp nhân dân Campuchia đảm đương được công việc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Kết quả công cuộc hồi sinh đất nước minh chứng cho tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Việt Nam đối với Campuchia.

Ba là, để bảo vệ độc lập, chủ quyền của Việt Nam và vì hòa bình, ổn định của khu vực.

Đối với Việt Nam, Pôn Pốt quyết tâm chống phá đến cùng. Bởi ngay khi Pôn Pốt bị đánh bật khỏi Phnôm Pênh, Trung Quốc đã nhanh chóng thuyết phục Thái Lan (nước trước đó từng lên án chế độ diệt chủng Pôn Pốt) ủng hộ, tạo điều kiện để Pôn Pốt có đất đứng chân và ngay lập tức, Trung Quốc tiến hành cuộc tấn công xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam, với một trong các lý do là trừng phạt Việt Nam đã tiến công Nhà nước Campuchia Dân chủ độc lập, có chủ quyền, đồng thời yêu cầu quân đội Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, tạo điều kiện cho quân của Pôn Pốt - Iêng Xary quay trở lại. Tiếp đó, “đến giữa năm 1981, Trung Quốc viện trợ ồ ạt qua đường Thái Lan”(20) cho Pôn Pốt. Đây cũng là lý do để quân Pôn Pốt tiếp tục chống phá cách mạng Campuchia, cách mạng Việt Nam, buộc Việt Nam phải tổ chức tấn công tiêu diệt tận gốc tàn quân Pôn Pốt. Đặc  biệt, trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh, mối mâu thuẫn sâu sắc giữa Liên Xô - Trung Quốc, xu thế lợi ích quốc gia của các nước lớn, cùng quá trình xích lại gần nhau của Trung Quốc - Mỹ và những căng thẳng tiếp diễn trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc... nếu tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary thiết lập lại sự thống trị của chúng ở Campuchia, thì đó sẽ là nguy cơ dẫn đến sự bất ổn của khu vực nói chung và đe dọa trực tiếp đến độc lập, chủ quyền của Việt Nam nói riêng.

3. Thực tiễn lịch sử, dư luận quốc tế ngày càng minh chứng cho hành động chính nghĩa của Quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam trong 10 năm giúp đỡ Campuchia

Theo nhà sử học, nhà báo Uyn - phrết Bớc - sét “Việt Nam không chỉ đóng một vai trò sống còn trong “sự sống sót kỳ diệu” của nhân dân Campuchia mà họ còn thể hiện vai trò ấy một cách xứng đáng”(21).  Một bài viết đăng trên tờ Chicago Tribune (Diễn đàn Chicagô, Mỹ) năm 1990, khẳng định, việc Việt Nam đưa quân sang giúp Campuchia là một bước tiến trong việc duy trì hòa bình ở khu vực Đông Dương. Tờ Thời báo Canberra của Australia số ra ngày 19-3-1989 đánh giá: “Ai cũng phải thừa nhận là việc Việt Nam vào Campuchia đã đem lại kết quả rõ ràng. Hành động đó đã được nhân dân Campuchia ở khắp nơi chào đón như là sự giải phóng cho họ. Và ai cũng thấy rõ ràng là sở dĩ từ trước đến nay, Khmer Đỏ không thể trở lại được Phnôm Pênh chủ yếu vì sự có mặt của Việt Nam”. Báo Prôchiachuôn của Campuchia, số ra ngày 26-9-1989 viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới chế độ diệt chủng Pôn Pốt, trên thế giới này không biết bao nhiêu là kẻ mạnh, kẻ giàu, nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc ta mà thôi”(22). Thủ tướng Hun Xen khẳng định: “Quân dân Campuchia nếu không có sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam thì không thể giải phóng nhanh đến thế. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết”(23). Chủ tịch Quốc hội Campuchia, Xămđéc Hêng Xomrin cũng nhấn mạnh: “... nếu không có sự cứu giúp của Đảng Cộng sản Việt Nam thì nhân dân Campuchia chúng tôi chắc chắn sẽ không còn tên tuổi của mình trên thế giới này...”(24). Còn đối với Việt Nam, suốt 10 năm đó đã phải chịu nhiều hy sinh, mất mát to lớn. Song, đó là “thắng lợi đầu tiên của nhân dân ta khi đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, đánh bại một bước âm mưu làm suy yếu lâu dài đất nước ta... Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước với tư thế hoàn thành nhiệm vụ, sáng ngời chính nghĩa...”(25).

Như vậy, cuộc tiến công của Việt Nam sang Campuchia mang tinh thần quốc tế cao cả và ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đã giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, hồi sinh đất nước, đồng thời bảo vệ độc lập, chủ quyền của Việt Nam, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và xây dựng tình đoàn kết quốc tế hữu nghị, trong sáng. Đó mãi là trang sử đẹp của nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, biểu tượng sáng ngời của quan hệ giữa hai nước.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2021

(1) Tài liệu thu được tại Sở chỉ huy Sư đoàn 4 quân Pôn Pốt (căn cứ Krếch) ngày 22-12-1977, số 990, tài liệu lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và môi trường Quân khu 7.

(2) Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông số 82, đơn vị bảo quản 2395.

(3) Báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.

(4) Báo cáo chuyên đề về chiến tranh biên giới phía Tây Nam, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ 75, tr.30-31.

(5) Tình hình chính trị nội bộ và hoạt động nổi dậy của lực lượng chống đối ở Campuchia. Tài liệu lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông số 82, đơn vị bảo quản 2319.

(6) E.V. Cô-bê-lép (1986), Campuchia từ thảm họa đến hồi sinh, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, tr.32.

(7), (20), (21) Uyn-phrết Bớc-sét (1986), Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, tr.160, 252, 269.

(8), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (17), (18) Xem: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.31, 33, 52, 414-419-420, 420, 416, 186-190, 55, 74.

(9) Trường Chinh: Vấn đề Campuchia, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr.11.

(16) Xem: Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 11- 5 -1979.

(19) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân sự Việt Nam, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.381.

 (22) Xem: Quân đội nhân dân Việt Nam - 60 năm bảo vệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.368-369.

(23) Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên gới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng (07-01-1979 - 07-01-2019) (2018), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.50.

(24) Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 35 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, ngày 5-1-2014.

 

(25) Tư liệu về Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Ban Tổng kết lịch sử, Phòng Khoa học Công nghệ, Văn phòng Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà

TS Vũ Thị Hồng Dung

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền