Trang chủ    Thực tiễn    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng    Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Thứ bảy, 30 Tháng 4 2022 14:33
24788 Lượt xem

Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

(LLCT) - Ngày nay, kinh tế tri thức là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa của phát triển nền kinh tế tri thức gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sự nghiệp đổi mới, hiện thực mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bài viết phân tích những quan điểm Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế tri thức, từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.

Phát triển kinh tế tri thức gắn với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - Ảnh: vinanet.vn

1. Đại hội XIII của Đảng với vấn đề phát triển kinh tế tri thức 

Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức ảnh hưởng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ những năm đầu đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ cần phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH để thoát khỏi nước chậm phát triển, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. 

CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức được Đảng ta xác định chính thức từ Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 7-1994). Hội nghị xác định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, phục vụ yêu cầu điện tử hóa và tin học hóa nền kinh tế quốc dân”(1)

Đến tháng 6-1996, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả, hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với mạng thông tin quốc tế”(2)

Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”(3). Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã xác định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc gia”(4)

Trên cơ sở thực tiễn, các Đại hội X, XI, XII của Đảng đều nhấn mạnh vị trí, vai trò, nội dung và biện pháp nhằm phát triển kinh tế tri thức trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Như vậy, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế tri thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xác định đó là xu hướng, quy luật phát triển.

Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên tất các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(5). Bên cạnh những thuận lợi, trong bối cảnh hiện nay, với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Việt Nam phải nhanh chóng bắt nhịp với xu thế của thời đại, cần phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. 

Phát triển kinh tế tri thức, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào các lĩnh vực nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tạo ra sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên cơ sở thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội”(6)

Trên cơ sở đó, Đại hội XIII nêu quan điểm phát triển đối với nền kinh tế nước ta: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(7)

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”(8)

Để phát triển kinh tế tri thức, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đóng vai trò quyết định. Vì vậy, một trong ba đột phá chiến lược được Đại hội nêu ra nhằm phát triển kinh tế - xã hội là cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với “phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(9).

Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức, Đại hội chỉ ra một số nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới”(10). Vì vậy, phải “Thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử”(11)

Để thực hiện được nhiệm vụ trên, các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ đóng vai trò tiên phong, tạo ra các sản phẩm công nghệ để ứng dụng vào phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, cần tập trung “phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng”(12).

Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa, phát triển những quan điểm về vị trí, vai trò của kinh tế tri thức từ những đại hội trước đó; tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, trong đó phát triển kinh tế tri thức mà cụ thể là phát triển kinh tế với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế tri thức gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ đóng góp vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế mà còn tạo cơ sở, nền tảng hướng tới đẩy mạnh ứng dụng quản trị chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia.

2. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, trên tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tri thức ở nước ta là:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đối với kinh tế tri thức

Ở bất kỳ quốc gia nào, nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế tri thức. Nhà nước phải đề ra những cơ chế, chính sách sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn, để thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra ba đột phá chiến lược, trong đó hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 

Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam; hỗ trợ các điều kiện cần thiết để phát triển khoa học - công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, triển khai; khuyến khích phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, ứng dụng những thành quả tri thức nhằm tạo ra năng suất cao. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, giải phóng mọi khả năng sáng tạo là khâu then chốt, đột phá để khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tiến vào nền kinh tế tri thức, phát triển đất nước phồn vinh.

Xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung kịp thời hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách thể hiện quan điểm tạo thuận lợi cho hoạt động ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ vào các ngành kinh tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước các cấp; xác định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của bộ máy tổ chức của Đảng, của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như của các bộ phận khác trong hệ thống chính trị để phát triển nền kinh tế tri thức. Nhấn mạnh các vấn đề về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, bản quyền; tránh mâu thuẫn, chồng chéo giữa văn bản luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Có chính sách thuế phù hợp để khuyến khích đầu tư, thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế phát triển.

Cần có những cơ chế, chính sách, đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ trí thức trẻ vì đây là đối tượng có sự sáng tạo, nắm bắt nhanh với xu hướng công nghệ hóa và những tiến bộ khoa học của thời đại. Có chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài. Có chính sách với những trí thức làm việc ở nước ngoài để họ có điều kiện cống hiến tài năng và trí tuệ, cho sự phát triển của đất nước. Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp bằng cách thành lập các tổ chức, trung tâm hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trẻ khởi nghiệp; quan tâm phát triển các tập đoàn công nghệ trở thành trụ cột của kinh tế quốc gia.

Chính phủ cần có chính sách phát triển vùng, giảm thiểu mất cân đối giữa các khu vực, khuyến khích các địa phương tạo ra những lợi thế cạnh tranh riêng bằng cách đổi mới, sáng tạo dựa trên những lợi thế đặc trưng của từng nơi để phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy ứng dụng tri thức, khoa học - công nghệ ở các vùng nông thôn, tạo ra sự phát triển đồng bộ xã hội giữa nông thôn và thành phố, hạn chế dần mức độ tập trung quá cao ở các thành phố lớn, gây ra những vấn đề đô thị nghiêm trọng.

Hai là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn

Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, “Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”(13) là nhiệm vụ quan trọng. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng với yêu cầu hiện nay, phải tạo được chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Giáo dục góp phần tạo ra tri thức, phát triển tri thức, đồng thời quảng bá tri thức. Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa tri thức vào trong các hoạt động xã hội của con người. Vì vậy, giáo dục là ngành cơ bản trong nền kinh tế tri thức.

Để phát triển nền giáo dục một cách toàn diện, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đẩy mạnh phương pháp giáo dục từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Nội dung dạy học phải cập nhật thường xuyên, cung cấp cho người học tri thức khoa học mới, phù hợp nhu cầu xã hội, quốc tế.

Khuyến khích đội ngũ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý, sản xuất kinh doanh, kỹ sư, công nhân bậc cao trong các ngành kinh tế mũi nhọn tự trau dồi kiến thức, kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không chỉ đáp ứng yêu cầu của công việc mà còn định hướng phát triển bền vững các lĩnh vực trong tương lai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài, kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến, phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước.

Ba là, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin  

Chú trọng thực hiện đồng bộ các chính sách thu hút đầu tư, chính sách tài chính để khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, ít sử dụng tài nguyên, năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường; xây dựng cơ sở hạ tầng - công nghệ tiên tiến, hiện đại; quan tâm chi đầu tư cho khoa học - công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo phát triển đồng bộ kinh tế số, hướng đến xây dựng cơ sở hạ tầng chất lượng cao phục vụ cuộc sống của nhân dân như: đô thị thông minh, các dịch vụ trực tuyến,...

Phát triển hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin được xác định là một trong những con đường ngắn nhất và làm đòn bẩy khơi dậy mọi tiềm năng, nội lực trong nước. Vì vậy, cần phát triển nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, mạng viễn thông và internet, nâng cao mức độ sẵn sàng kết nối mạng. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin theo hướng rộng, đa phương tiện nhằm thúc đẩy, đặt nền móng cho phát triển thương mại điện tử, chính phủ điện tử, giáo dục điện tử, y tế điện tử. Bảo đảm hệ thống mạng thông tin trong nước đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, kết nối mọi miền đất nước với tốc độ cao, dung lượng lớn, giá cước thấp. 

Tất cả trường học, bậc học, cấp học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tri thức khoa học trong giáo dục - đào tạo. Đảng và Nhà nước cần quan tâm, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục để phấn đấu toàn bộ học sinh từ cấp tiểu học trở lên ở tất cả các vùng miền đều được tiếp cận và sử dụng máy vi tính, internet phục vụ cho học tập; xây dựng các chương trình, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng phát triển kỹ năng mềm, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học; phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, sinh viên cao đẳng, đại học trong việc tự học tập, nghiên cứu khoa học. Xây dựng các trung tâm thông tin - tư liệu, đặc biệt là thư viện điện tử kết nối các trường đại học trong và ngoài nước, các phòng thí nghiệm quốc gia, các trường đại học trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục, nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ và trao đổi tri thức cho học sinh, sinh viên.

Tích cực và chủ động hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên tiến đầu tư vào Việt Nam, từ đó gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh tế quốc tế. Khuyến khích xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển, phát triển công nghiệp; xây dựng các khu công nghệ cao, với hạt nhân là vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp hiện đại với lao động chất lượng và năng suất lớn thay thế các khu công nghiệp kiểu cũ, kém hiệu quả. 

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội

Trong thời đại công nghệ số hiện nay, các doanh nghiệp coi khả năng ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh. Công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử chính là chìa khóa, biện pháp cơ bản để đổi mới quản lý, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước.

Ứng dụng công nghệ cao trong tổ chức sản xuất của một số ngành công nghiệp, có tác động lan tỏa, dẫn dắt việc chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu. Đẩy nhanh chuyển đổi số đối với một số ngành, lĩnh vực đã có điều kiện, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường... để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.

Ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển nông thôn. Xây dựng và triển khai các giải pháp hỗ trợ phù hợp để phổ cập thông tin số đến các hộ gia đình, điều này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước theo hướng kinh tế tri thức. Đưa tri thức và thông tin về cơ sở, ứng dụng công nghệ thông tin để thu hẹp khoảng cách địa lý, khoảng cách tri thức cho người dân vùng sâu, vùng xa và các vùng khó khăn. Đưa thông tin đến với các vùng đó không chỉ giúp họ cải tiến phương pháp sản xuất mà còn nâng cao dân trí, xóa bỏ tư tưởng, quan niệm lạc hậu, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay. Đó là điều kiện ban đầu hết sức cần thiết cho việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội để CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 

Phát triển kinh tế tri thức đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, tri thức không ngừng gia tăng. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra tại Đại hội.

__________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.53, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.570.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.55, sđd, tr.457.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.60, sđd, tr.124.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.68, sđd, tr.938.

(5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13) ĐCSVN:  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25, 208, 214, 217, 221, 234-235, 234-235, 247, 231.

TS NGUYỄN THỊ CHINH

Học viện Ngân hàng

ThS NGUYỄN TRUNG KIÊN

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền