Trang chủ    Thực tiễn    Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh giữa hai tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) và tỉnh Sê Kông (Lào) giai đoạn 1997-2015
Thứ năm, 30 Tháng 6 2022 16:36
955 Lượt xem

Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh giữa hai tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) và tỉnh Sê Kông (Lào) giai đoạn 1997-2015

(LLCT) - Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng có chung đường biên giới với chiều dài trên 2.000km, trải suốt 10 tỉnh của hai nước. Nhân dân các tỉnh biên giới hai nước có quá trình lịch sử gắn bó lâu dài trên những chặng đường đấu tranh gian khổ, hy sinh, vượt qua nhiều thử thách và ngày càng gắn bó mật thiết với nhau. Sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhân tố quan trọng giúp tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh hai nước và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của mỗi nước. Bài viết tổng kết quan hệ hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh giữa hai tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) và tỉnh Sê Kông (Lào) trong giai đoạn 1997-2015.

Đại diện Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam trao tặng trang thiết bị hỗ trợ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sê Kông phòng chống dịch Covid-19 - Ảnh: baoquangnam.vn

Trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập tự do lâu dài, gian khổ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam và Lào luôn đoàn kết, kề vai sát cánh tương trợ nhau. Hợp tác quốc phòng, an ninh hai nước được hình thành, phát triển từ quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân và dân hai nước trong đấu tranh giành độc lập dân tộc. Theo chiều dài lịch sử, hợp tác quốc phòng, an ninh được phát triển ngày càng mạnh mẽ, trở thành lĩnh vực sinh động của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa hai nước, đặc biệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, hợp tác về quốc phòng, an ninh tiếp tục được coi là trụ cột trong quan hệ hai nước nhằm giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở mỗi nước.Mối quan hệ ấy ngày càng thể hiện rõ nét, sinh động, hiệu quả giữa các tỉnh có chung đường biên giới, trong đó có tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông.

Tỉnh Quảng Nam giáp với tỉnh Sê Kông về địa lý, có chung đường biên giới dài 157,422 km, cùng dựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ và có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, truyền thống, điều kiện kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở khách quan, tiền đề vững chắc của mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa nhân dân hai tỉnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình cảm đó được thể hiện sinh động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Xét trong tổng thể mối quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào, thì mối quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Nam với tỉnh Sê Kông là sự biểu hiện sinh động, cụ thể của quan hệ hợp tác địa phương. Trên cơ sở quan hệ hợp tác đặc biệt giữa hai nước, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Nam với tỉnh Sê Kông ngày càng được củng cố và không ngừng phát triển.

Từ sau năm 1975, quan hệ hai nước Việt Nam - Lào nói chung, tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông nói riêng có những chuyển biến mới. Từ quan hệ chủ yếu về chính trị, quân sự, đối ngoại chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đặc biệt từ năm 1997, khi tỉnh Quảng Nam được tái lập, quan hệ hợp tác với Sê Kông có những bước phát triển mới, đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia của tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông có vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào nói chung, tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông nói riêng. Hợp tác trên lĩnh vực này góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo sự tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, triển khai thực hiện có hiệu quả Hiệp định về Quy chế biên giới giữa hai nước Việt Nam - Lào.

Trong bối cảnh hai nước luôn bị các thế lực thù địch tìm cách chống phá, “Việt Nam và Lào xác định hợp tác về quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất cấp bách và quan trọng hàng đầu”(1), là trụ cột trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Yêu cầu này đặt ra cho lãnh đạo, các ngành, các cấp, lực lượng chức năng và nhân dân nhất là ở khu vực biên giới hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông cần phải tăng cường hợp tác, nỗ lực, phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức triển khai thực hiện những nội dung mà hai Đảng, Nhà nước đã ký kết, nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị Việt Nam - Lào.

Hai tỉnh Quảng Nam và Sê Kông “có chung 18 cột mốc quốc giới (từ T1 đến T18)”(2). Hai bên có hai cửa khẩu: cửa khẩu chính Nam Giang - Đắc Tà Oọc và cửa khẩu phụ Tây Giang - Kà Lừm. Đường biên giới khu vực này hết sức phức tạp, bị ngăn cách bởi nhiều dãy núi cao, khe suối lớn, nhỏ, giao thông đi lại vô cùng khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa. Đời sống của nhân dân khu vực biên giới khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhất là đồng bào dân tộc sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao biên giới; trình độ nhận thức về lãnh thổ quốc gia, việc tuân thủ các quy định, thủ tục về việc qua lại biên giới, xuất, nhập cảnh còn rất hạn chế. Một bộ phận đồng bào sống ở khu vực biên giới còn có những tập tục lạc hậu, mê tín nên dễ bị bọn phản động, tội phạm lợi dụng.

Trong những năm đầu tái lập tỉnh Quảng Nam, do hệ thống giao thông đi lại giữa hai bên quá khó khăn nên việc gặp gỡ giữa chính quyền cấp tỉnh để trao đổi những vấn đề biên giới không được duy trì thường xuyên. Tuy nhiên, giữa các đồn biên phòng và các xã biên giới, huyện biên giới hai bên vẫn tổ chức luân phiên mỗi năm gặp nhau ít nhất hai lần để trao đổi tình hình. Các đơn vị chức năng tại hai địa phương đã có nhiều nỗ lực, trao đổi, hợp tác, giải quyết tốt vấn đề biên giới, cửa khẩu, “Việc phối hợp trong công tác quản lý, bảo vệ đường biên mốc giới, thủ tục xuất nhập cảnh cho người, phương tiện hàng hóa qua lại cửa khẩu và giải quyết các vấn đề nảy sinh trên khu vực biên giới của các cơ quan chức năng đã được chính quyền hai tỉnh đánh giá rất cao tại các cuộc gặp gỡ trao đổi về công tác biên giới. Lực lượng bảo vệ biên giới của hai tỉnh đã phối hợp chặt chẽ, duy trì thường xuyên chế độ giao ban định kỳ và đột xuất để thông báo, trao đổi tình hình cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan đến biên giới theo đúng thẩm quyền và tuân thủ theo các Hiệp định, Nghị định thư về Quy chế khu vực biên giới”(3).

Để bảo quản hệ thống mốc giới trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đoạn Quảng Nam - Sê Kông, năm 2005, chính quyền hai tỉnh cùng lực lượng chức năng hai bên “Tổ chức song phương phát quang và sơn sửa toàn bộ hệ thống mốc quốc giới đoạn từ T1 đến T18 với tổng cộng 69 lượt người tham gia thực hiện bảo đảm đúng quy trình kỹ thuật và nguyên tắc. Tổ chức tiếp nhận và đưa vào sử dụng bản đồ đường biên giới Việt Nam - Lào”(4).

Tuy nhiên, hệ thống mốc quốc giới đoạn Quảng Nam - Sê Kông được đặt tại nhiều vị trí hiểm trở, khó khăn, chịu tác động mạnh bởi thiên tai, thời tiết, nên thường xuyên bị hư hỏng. Để gia cố, bảo quản hệ thống mốc quốc giới, lực lượng chức năng hai tỉnh thường xuyên quan tâm, gia cố, tôn tạo, bảo quản. Riêng năm 2003 và 2005 lực lượng Bộ đội Biên phòng Quảng Nam và lực lượng Công an, Quân sự tỉnh Sê Kông đã gia cố các mốc T3, T14, T9, T11 bảo đảm đúng kỹ thuật.

Việc quản lý qua lại biên giới được hai tỉnh quan tâm chú trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, doanh nghiệp hai bên qua lại và bảo đảm đúng quy định, “Công tác kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện, hàng hóa xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu qua cửa khẩu được thực hiện theo đúng quy trình thủ tục, việc quản lý, cấp phát chứng minh thư biên giới, giấy thông hành đúng đối tượng, thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân qua lại đầu tư hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhân dân hai bên qua lại trao đổi hàng hóa và thăm thân được thuận lợi”(5).

Sự phối hợp của lực lượng chức năng hai bên, công tác quốc phòng, an ninh và thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới đạt nhiều kết quả tốt, năm 2005 “Công tác phối hợp quản lý qua lại biên giới và giữ gìn an ninh trật tự ở khu vực biên giới luôn được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, nhất là công tác tuần tra, kiểm soát, phòng chống tội phạm và các vi phạm Hiệp định. Trong năm có 1.341 lượt người xuất biên; 2.157 lượt người nhập biên; giải quyết thủ tục tạm nhập, tái xuất cho 59 lượt phương tiện, thiết bị, 627 tấn hàng hóa phục vụ thi công thủy điện Xê Ca Mán 3”(6)

Bên cạnh việc giải quyết vấn đề an ninh, thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới, lực lượng chức năng tỉnh Quảng Nam dù còn có những khó khăn nhất định, nhưng với tinh thần đồng chí, giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ trong những lúc khó khăn, năm 2005 “các y, bác sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Nam tổ chức khám chữa bệnh cho cán bộ, nhân dân hai huyện Đắc Chưng, Kà Lừm, ngăn chặn, dập tắt kịp thời các ổ dịch bệnh, đặc biệt là các đợt dịch tả. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam đã giúp tỉnh Sê Kông khảo sát, lập dự án xây dựng các khu kinh tế, kết hợp với quốc phòng, an ninh dọc tuyến biên giới”(7).   

Từ năm 2001-2005, lực lượng chức năng hai bên đã phối hợp chặt chẽ, hàng quý tổ chức giao ban, hội nghị, thông báo tình hình, triển khai các phương án, kế hoạch mở rộng quan hệ hợp tác bảo đảm an ninh trật tự trên tuyến biên giới. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các tỉnh Thừa Thiên Huế, Kon Tum và các tỉnh Nam Lào như Chămpasắc, Salavăn, Attapư, tổ chức hội nghị công tác biên giới, trao đổi tình hình, hợp đồng tác chiến. Qua đó, nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình địa bàn, quản lý chặt chẽ các loại đối tượng; đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động tuyên truyền, kích động, xâm nhập, phá hoại của các thế lực thù địch; giải quyết các vụ việc có liên quan đến hai bên biên giới, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Công tác phối hợp quản lý xuất nhập cảnh và giữ gìn an ninh trật tự ở khu vực cửa khẩu luôn được duy trì chặt chẽ, đúng nguyên tắc, thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa lưu thông qua cửa khẩu. Đặc biệt, từ khi được nâng cấp thành cửa khẩu chính “lưu lượng người, hàng hóa, phương tiện qua lại cửa khẩu tăng đột biến đây là dấu hiệu rất khả quan cho việc phát triển kinh tế, văn hóa du lịch của hai tỉnh”(8).   

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hợp tác về quốc phòng, an ninh giữa hai tỉnh trong giai đoạn 1997-2005 còn những tồn tại, hạn chế. Năm 2005 “Qua công tác kiểm tra, kiểm soát đã phát hiện và bắt giữ 03 vụ/09 đối tượng người Việt Nam có hành vi nhập biên trái phép từ Lào về Việt Nam, nhắc nhở 05 trường hợp với 27 công dân Lào vi phạm quy chế biên giới (không bảo đảm giấy tờ)… tình hình biên giới hai tỉnh vẫn còn tồn tại một số vấn đề như buôn bán, sử dụng các chất ma túy, đào đãi vàng sa khoáng, khai thác lâm thổ sản, động vật quý hiếm gây phức tạp tình hình khu vực biên giới”(9)

Còn có hiện tượng “Tình trạng vượt biên trái phép, xâm canh, săn bắn động vật quý hiếm, khai thác trầm, vàng, phế liệu chiến tranh vấn còn xảy ra, chủ yếu là công dân Việt Nam, công tác quản lý biên giới còn để sơ hở, đối tượng lợi dụng buôn bán gia súc, gia cầm chưa được kiểm dịch từ địa bàn tỉnh Sê Kông sang Quảng Nam, một số trường hợp công dân hai bên qua lại chưa bảo đảm đúng thủ tục, giấy tờ. Công tác thông tin, thông báo phối hợp giữa lực lượng bảo vệ biên giới để triển khai các công việc có liên quan còn bất cập, chưa kịp thời”(10). Những hạn chế trên yêu cầu lãnh đạo hai tỉnh, các ngành chức năng cần tăng cường hợp tác chặt chẽ hơn nữa để công tác quốc quốc phòng, an ninh và thực hiện Hiệp định về Quy chế đường biên giới quốc gia giữa hai nước Việt Nam - Lào đoạn Quảng Nam, Sê Kông được bảo đảm an toàn.

Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trên nền tảng thành tựu của công cuộc đổi mới, hai nước tiếp tục phát huy những lợi thế nhằm điều chỉnh chính sách, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập quốc tế và khu vực, đồng thời hai nước cần nhận định, xác định cụ thể những diễn biến của tình hình thế giới, khu vực, đặt ra những yêu cầu mới trong quá trình thực hiện quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. “Hai nước tiếp tục coi trọng mối quan hệ truyền thống chiến lược đặt biệt, quyết tâm giữ gìn, phát huy và coi đó là tài sản vô giá của hai dân tộc, tiếp tục dành sự ưu tiên, ưu đãi cho nhau trong viện trợ, hợp tác kinh tế, đầu tư và phát triển”(11).

Bối cảnh đó tác động đến quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông, trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015, hai tỉnh tổ chức triển khai, thực hiện có hiệu quả những nội dung mà hai Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã ký kết, đồng thời cần hợp tác để giải quyết nhiều vấn đề liên quan tác động như vấn đề biên giới, hôn nhân không giá thú, tội phạm xuyên quốc gia, phòng chống dịch bệnh, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm các nguồn viện trợ, xây dựng cơ sở hạ tầng, kết nối khu vực, mở rộng thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường, hợp tác về giáo dục và đào tạo.

Bước vào giai đoạn 2006-2015, hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh được lãnh đạo và lực lượng chức năng hai tỉnh đẩy mạnh hợp tác toàn diện về mọi mặt. Trong giai đoạn này, đây là nội dung trọng tâm, quan trọng để giải quyết và là cơ sở vững chắc, tạo niềm tin, động lực các cho mối quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh trên các lĩnh vực khác.

Để hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh được chặt chẽ, thường xuyên, lực lượng chức năng hai tỉnh đã đề xuất lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Sê Kông tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang hai bên thường xuyên tổ chức các hội nghị, họp giao ban để thông báo tình hình cho nhau. Đồng thời, lãnh đạo hai tỉnh chỉ đạo lực lượng vũ trang tiếp tục hợp tác xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng ở một số bản của huyện Đắc Chưng, huyện Kà Lừm tiếp giáp với Quảng Nam, khu kinh tế cửa khẩu huyện Nam Giang.

Tổ chức Đảng, Chính quyền và nhân dân hai bên khu vực biên giới là lực lượng hằng ngày bảo vệ đường biên, mốc giới, bảo vệ an ninh, phòng chống tội phạm, cung cấp thông tin để lực lượng chức năng theo dõi, nắm bắt tình hình để phối hợp giải quyết. Trong năm 2006-2007, lãnh đạo hai tỉnh Quảng Nam, Sê Kông thống nhất “Cho phép Bộ Chỉ huy Quân sự, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng, Công an hai tỉnh gặp gỡ, đánh giá kết quả đạt được trong lĩnh vực hợp tác về an ninh quốc phòng, trao đổi về phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, đặc biệt là trao đổi về tình hình có liên quan đến biên giới, ngăn chặn kịp thời bọn phản động lưu vong xâm nhập, đối tượng buôn lậu, vận chuyển ma túy, vũ khí, tiền giả qua biên giới, giải quyết các vụ việc có liên quan đến Hiệp định và các đối tượng gây chia rẽ tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào”(12).

Nhằm tăng cường hơn nữa hợp tác khu vực biên giới giữa hai tỉnh, năm 2008, “Hai tỉnh thống nhất phối hợp tổ chức hội nghị về phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới. Hội nghị được tổ chức tại tỉnh Quảng Nam. Thành phần tham dự là Bí thư Chi bộ, Trưởng các bản khu vực biên giới phía Sê Kông và Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã biên giới của tỉnh Quảng Nam”(13)

Ngoài hợp tác bảo vệ biên giới, phòng chống tội phạm, lực lượng vũ trang hai bên còn giúp đỡ nhau trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, viện trợ, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam còn phối hợp chặt chẽ với Quân khu V để giúp đỡ lực lượng vũ trang tỉnh Sê Kông. Năm 2008, lực lượng vũ trang hai tỉnh và các huyện giáp biên của hai tỉnh đã phối hợp tốt trong công tác bảo vệ biên giới; tổ chức nhiều cuộc họp giao ban luân phiên để thông báo tình hình, trao đổi công tác nghiệp vụ. “Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho 15 cán bộ trình sát của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sê Kông với kinh phí khoảng 70 triệu đồng và phối hợp với Quân khu V (Việt Nam) đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sê Kông, trong đó tỉnh Quảng Nam hỗ trợ 01 tỷ đồng”(14). Lực lượng chức năng hai bên thường xuyên hợp tác, tổ chức hội nghị giao ban để bảo vệ biên giới. Bên cạnh đó, “Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Nam tặng cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sê Kông 02 bộ máy vi tính. Công an ninh tỉnh Quảng Nam tặng cho Công an ninh tỉnh Sê Kông một thiết bị để phục vụ công tác. Hoạt động qua lại biên giới được quản lý chặt chẽ, tại cửa khẩu Nam Giang - Đắc Tà Ọoc có hơn 48.988 lược người với 7.126 phương tiện nhập cảnh”(15); “Bộ đội Biên phòng hai bên đã phối hợp để nắm chắc tình hình tuyến biên giới, địa bàn ngoại biên, chống xâm nhập, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phạm tội qua biên giới như ma túy, buôn bán phụ nữ, khai thác lâm khoáng sản trái phép, buôn lậu, gian lận thương mại. Quản lý tốt các đối tượng chính trị, hình sự, các đối tượng cực đoan, không để phần tử xấu lôi kéo, lợi dụng gây rối, bạo loạn làm mất an ninh trật tự tại khu vực biên giới”(16).

Hợp tác quốc phòng, an ninh và công tác biên giới giữa hai tỉnh có kế hoạch và nội dung hợp tác dài hạn. Năm 2012, lãnh đạo cấp cao hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông xác định nội dung hợp tác cần phải “Tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp tổ chức tuyên truyền, thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới, giải quyết các vấn đề liên quan đến đường biên giới quốc gia giữa hai tỉnh, tập trung tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong khu vực biên giới tuân thủ quy định của Hiệp định trong việc qua lại biên giới. Hai bên phối kết hợp và chuẩn bị triển khai thực hiện tốt dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc giới Việt Nam - Lào”(17). Hai bên tiếp tục hợp tác xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng ở một số bản của các huyện Đắc Chưng, Kà Lừm, khu kinh tế cửa khẩu huyện Đắc Chưng và khu kinh tế quốc phòng huyện Lạ Màm. Mỗi tỉnh tập trung nguồn lực để đầu tư xây dựng Trạm kiểm soát liên hợp và các công trình hạ tầng liên quan đến cửa khẩu Nam Giang - Đắc Tà Oọc bảo đảm đủ mọi điều kiện đề nghị Chính phủ hai nước nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế.

Có thể thấy, trên lĩnh vực hợp tác về phòng, an ninh, hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông đã hợp tác rất chặt chẽ, thường xuyên trao đổi công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhằm bảo vệ tốt tình hình an ninh khu vực biên giới. Tình hình biên giới, công tác phòng chống tội phạm của hai tỉnh được thực hiện tốt, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Trong lịch sử, Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng Nhân dân cách mạng Lào Chumaly Xaynhaxỏn từng khẳng định: “Mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa hai nước Việt - Lào, Lào - Việt được hình thành và phát triển không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, mà là do yêu cầu khách quan của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do chống kẻ thù chung, từ yêu cầu xây dựng đất nước của hai dân tộc qua các giai đoạn lịch sử... Như vậy, chính do yêu cầu khách quan của hai dân tộc mà Việt Nam và Lào đã liên kết với nhau. Đó là quy luật cho sự tồn tại và phát triển của hai dân tộc, là một nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào cũng như Việt Nam”(18).

Từ những thành công, hạn chế của quan hệ hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh giữa tỉnh Quảng Nam với tỉnh Sê Kông từ năm 1997 đến năm 2015 đã để lại một số một kinh nghiệm quý:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hai tỉnh về mối quan hệ hợp tác truyền thống đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào nói chung và giữa hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông nói riêng.

Hai là, hai tỉnh cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các chủ trương của hai Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành, đoàn thể về quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam - Lào phù hợp với khả năng, điều kiện cụ thể của hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông.

Ba là, chú trọng công tác kiểm tra, theo dõi, nắm chắc tình hình, kịp thời đánh giá, tổng kết thực tiễn những nội dung hợp tác để kịp thời phát hiện những thiếu sót, hạn chế để thảo luận thống nhất nội dung thỏa thuận hợp tác.

Bốn là, trong quá trình hợp tác, cần chú trọng tính hiệu quả, chất lượng, đem lại lợi ích chung và lợi ích kinh tế giữa hai tỉnh.

Năm là, chú trọng đến các lợi thế của mỗi tỉnh để bổ sung, hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác đôi bên cùng có lợi.

Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và khu vực, xuất phát từ tình hình cụ thể của mỗi nước, hai tỉnh tự hào sâu sắc về truyền thống đoàn kết đặc biệt, khẳng định quyết tâm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, coi đây là tài sản vô giá để truyền tiếp cho các thế hệ mai sau. Hai bên nhất trí đẩy mạnh sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời dành sự ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác, tạo điều kiện để mỗi nước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

__________________

(1) Ban Tuyên giáo Trung ương: Quan hệ đặt biệt Việt Nam - Lào (1930- 2017), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.92.

(2) Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Ban Biên giới): Báo cáo số 338/BC-BG về Báo cáo một năm thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới tại cuộc họp giữa hai đoàn đại biểu tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Kông (Lào), ban hành ngày 18-11-1996, Đà Nẵng, 1996, tr.1.

(3), (4), (5), (7), (10) Biên bản Hội nghị thường niên giữa đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) với đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Sê Kông (Lào), tháng 02-2006, tr.12, 12, 12, 12, 3.

(6), (9) Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam: Báo cáo số 27/BC-UBND về Kết quả thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia Việt Nam - Lào và quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông năm 2005, ban hành ngày 10-3-2006, Tam Kỳ, tr.2, 2.

(8) Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam: Báo cáo số 102/BC-UBND về Kết quả 5 năm (2001 - 2005) và 9 tháng đầu năm 2006 thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia Việt Nam - Lào và quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông, ban hành ngày 13-10-2006, Tam Kỳ, tr.1-2.

(11) Lê Đình Chỉnh: 55 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào nhìn lại và hướng tới, Nxb Thông tin và Truyền thông. Hà Nội, 2017, tr.254.

(12), (17) Biên bản Hội nghị thường niên giữa Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) với Đoàn Đại hiểu cấp cao tỉnh Sê Kông (Lào), Sê Kông, tháng 5-2007, tr.3-4, 4.

(13) Biên bản Hội nghị thường niên năm 2008 giữa đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) và đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Sê Kông (Lào), Quảng Nam, tháng 5-2008, tr.4.

(14), (15) Biên bản Hội nghị thường niên năm 2009 giữa đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) và đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Sê Kông (Lào), Sê Kông,  tháng 5-2009, tr.2, 2.

(16) Tỉnh ủy Quảng Nam: Báo cáo số 183-BC/TU về tình hình thực hiện hợp tác với Lào năm 2008 và chương trình hợp tác năm 2009, ban hành ngày 02-12-2008, Tam Kỳ, tr.2.

(18) Báo Nhân Dân: "Bài phát biểu của Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng Nhân dân cách mạng Lào Chumaly Xaynhaxỏn tại cuộc hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm chính thức Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ ngày 5 đến 7-2-2007", ngày 8-2-2007.

ThS LÊ MINH ĐỨC

Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền