Trang chủ    Thực tiễn    Củng cố mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng
Thứ tư, 15 Tháng 7 2015 15:33
4333 Lượt xem

Củng cố mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng

(LLCT) - Xã hội được hình thành bởi sự liên kết giữa các cá nhân, xã hội là nền tảng diễn ra hoạt động của cá nhân. Cá nhân là phương thức tồn tại của loài người, là phần tử tạo thành xã hội, mang bản chất xã hội, là sản phẩm đồng thời là chủ thể của lịch sử. Sự phát triển của cá nhân chỉ có thể đạt được trong quan hệ với xã hội và trong điều kiện xã hội nhất định; sự phát triển sáng tạo, tự do cá nhân là điều kiện, là thước đo trình độ phát triển của xã hội.

Xã hội luôn được tổ chức theo một cách thức nhất định với khung khổ, trật tự, cơ chế vận hành và các quy chế, quy tắc, luật lệ trong đó diễn ra các quan hệ của con người. Đó được gọi là thể chế xã hội. Thể chế xã hội bao phủ mọi lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, tư tưởng. Có thể chế quan phương và thể chế phi quan phương. Thể chế quan phương dùng để chỉ khung khổ trật tự xã hội được pháp luật hóa, được thực hiện thông qua nhà nước. Thể chế phi quan phương là khung khổ, trật tự của những quan hệ xã hội được điều tiết bởi các tập quán pháp (những phong tục, tập quán), các quy chế và được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội. Cá nhân phải tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực xã hội chung trong quá trình tồn tại. Cá nhân không thể đứng ngoài xã hội, càng không thể đối lập với xã hội, nó bị ràng buộc và phụ thuộc vào xã hội. Trong hành động xã hội của cá nhân, cái bản năng luôn tồn tại chi phối chủ thể, đồng thời cá nhân chịu sự kiểm soát của xã hội thông qua các chuẩn mực và thiết chế mà xã hội xác lập. Dưới tác động của xã hội diễn ra quá trình xã hội hóa, cá nhân chấp nhận những chuẩn mực của xã hội và thích nghi với chuẩn mực đó hoặc làm thay đổi hệ thống chuẩn mực này. Không cá nhân nào tồn tại trong xã hội mà không chịu sự xã hội hoá này. Đó là quá trình tương tác, giao tiếp, trao đổi giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, trong quá trình này mối quan hệ tương tác diễn ra có thể là đồng thuận, thích ứng hoặc lệch pha. Chính ở đây, đặt ra vấn đề: cách thức cá nhân tồn tại trong cộng đồng xã hội, trong thực hiện thể chế xã hội và tính hiện thực, tính hợp lý của thể chế xã hội.

Tồn tại trong xã hội, hoạt động của cá nhân bị tác động bởi yếu tố nhu cầu, bản năng và tác động xã hội. Nhu cầu là thuộc tính vốn có của con người. Lợi ích chính là tính hiện thực của nhu cầu, là nhu cầu được thực hiện. Xét trên bình diện giá trị, lợi ích chính là phần thu được có ích, có lợi của cá nhân hay cộng đồng khi tham gia vào một hoạt động nào đó. Lợi ích cá nhân là động lực hoạt động trực tiếp của cá nhân, là nền tảng của quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội có nhiều cấp độ, bao gồm: quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể, giữa cá nhân và xã hội; giữa lợi ích riêng và lợi ích chung; lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài... Tương ứng với tính chất của các quan hệ xã hội, có quan hệ lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin coi lợi ích là động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội. Quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội vừa có tính thống nhất vừa bao hàm mâu thuẫn. Tổ chức quản lý xã hội thực chất là việc sắp xếp, phân chia các lợi ích xã hội sao cho khuyến khích được hoạt động của các cá nhân theo hướng phát huy năng lực cao nhất của họ, tạo cho cá nhân các điều kiện, cơ hội trong phát triển để thúc đẩy sự tiến bộ chung của xã hội. Việc giải quyết vấn đề quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội cũng là một trong những nguyên nhân xã hội có thể dẫn tới tình trạng bất bình đẳng xã hội - tình trạng không ngang nhau về cơ hội và quyền lợi mà cá nhân được hưởng trong mối tương quan với những trách nhiệm, nghĩa vụ mà họ thực hiện, quyền mà họ được thừa nhận, trong đó có quyền kiểm soát các nguồn lợi xã hội. Mâu thuẫn về lợi ích tích tụ đến mức độ nhất định có thể dẫn đến xung đột xã hội, làm rối loạn hệ thống xã hội, có thể phá vỡ hoặc xóa bỏ cấu trúc hoặc tăng khả năng thích nghi của các hệ thống xã hội khi mâu thuẫn được giải quyết, được dung hòa.

Đồng bằng sông Hồng là vùng đất mang nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam với tín ngưỡng và các sinh hoạt lễ hội văn hoá dân giangắn với văn minh nông nghiệp lúa nướcvà tính cộng đồng tự quản làng xã. Tính cộng đồng tự quản trong quan hệ làng xã của cư dân đồng bằng sông Hồng có cội nguồn sâu xa và cơ bản từ thể chế kinh tế và thể chế chính trị mà C.Mác gọi là phương thức sản xuất châu Á với “chế độ công xã nông thôn” “là cơ sở bền vững của chế độ chuyên chế phương Đông”. Theo C.Mác: “Tình hình không có chế độ tư hữu về ruộng đất. Đó là chiếc chìa khoá thật sự ngay cả cho thiên giới phương Đông”(1[1]). Nền kinh tế - xã hội nông nghiệp truyền thống đồng bằng sông Hồng mang tính tiểu nông, manh mún, lạc hậu, với hộ gia đình là hình thức tổ chức kinh tế cơ bản, đòi hỏi sự cố kết gia đình, dòng tộc, cộng đồng; tương ứng với quan hệ ấy là sự tồn tại của thể chế chính trị quan phương và các thể chế phi quan phương trong thực hiện tự quản (bao gồm thể chế chung của thôn, làng thể hiện trong luật tục, hương ước, quy ước; thể chế của các hội nghề nghiệp trong làng nghề; thể chế của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo; thể chế của các dòng họ…). Trong phạm vi làng xã truyền thống, các cá nhân được hưởng lợi ích vật chất và tinh thần. Lợi ích vật chất là được sử dụng quỹ đất canh tác chung, được sử dụng nguồn nước và các tài nguyên, các tài sản chung của làng; các thành viên cũng có những nghĩa vụ được xác định trong lệ làng, trong hương ước. Lợi ích tinh thần của cá nhân là được thừa nhận là người chính cư, theo đó được chia sẻ giá trị tâm linh, được đối xử thân tình, được quyền tham gia việc làng. Việc có chung lợi ích vật chất và tinh thần làm các thành viên trong thôn làng đều hướng tới nhau, đoàn kết, nương tựa, sẻ chia tình cảm, giúp đỡ nhau. Tính cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm bền chặt.Tính cộng đồng đem lại cho mỗi cá nhân và cho cả làng xã một sức mạnh nhất định.

Qua gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,với việc tiếp tục thực hiện thể chế chính trị dân chủ, đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, CNH, HĐH và thực hiện những chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đã làm cho kinh tế - xã hội vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng phát triển mạnh mẽ.

Về phương diện chính trị, quá trình đổi mới với việc thực hiện củng cố thể chế chính trị dân chủ nhân dân, mở rộng dân chủ hóa; đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị và cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã góp phần tiếp tục xây dựng và hoàn hiện nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy tính tích cực chính trị của công dân, vai trò của tự quản của cộng đồng thôn làng, qua đó tác động đến quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, cá nhân và xã hội trên địa bàn. Trước đây, trong làng xã truyền thống, quan hệ của cá nhân và cộng đồng bó hẹp trong làng xã vớisự sắp đặt giá trị theo thứ bậc nhà - làng - nước, quan hệ của cá nhân với nhà nước không mang tính trực tiếp mà thực hiện thông qua cộng đồng làng xã. Hiện nay, quan hệ cá nhân và cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng là quan hệ mang tính trực tiếp với Nhà n­ước, với thể chế chính trị dân chủ nhân dân được thể chế hoá; cá nhân được tạo điều kiện phát triển và khẳng định. Cộng đồng xã có sự thống nhất về chính trị, về đời sống tinh thần dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng chung sức bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là yếu tố gắn kết cộng đồng làng xã với nhau, với quốc gia dân tộc.

Về kinh tế, ở nông thôn đồng bằng sông Hồng cũng như trên cả nước, đã diễn ra quá trình đa dạng hoá các hình thức kinh tế, các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển mạnh mẽ, vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình được tái xác lập. Đặc biệt, việc cụ thể hóa Luật đất đai, giao đất nông nghiệp - tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp, cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất đã tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ của nông dân, trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, việc làm, thu nhập, kết cấu hạ tầng nông thôn chuyển biến tích cực, kinh tế hàng hoá dần hình thành và bước đầu chuyển dịch theo hướng phục vụ xuất khẩu, tiềm năng của các nguồn lực được phát huy, sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn đã thực sự được giải phóng. Giải phóng cá nhân là thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới. Với cơ chế lấy lợi ích làm động lực của sự phát triển, kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự năng động, sáng tạo của cá nhân, kích thích tính tích cực cá nhân trong việc vươn lên tự khẳng định, tự chủ. Kinh tế thị trường cũng đem lại cách nhìn mới ở cư dân nông thôn về quan hệ lợi ích, mở ra những khả năng tham gia rộng rãi vào các hoạt động xã hội, đã có những cá nhân tham gia vào quan hệ thị trường trong nước và quốc tế; quan hệ xã hội của cá nhân bước đầu bị ảnh hưởng của quan hệ thị trường với sự tính toán thiệt hơn; khả năng thăng tiến, thay đổi vị thế xã hội của cá nhân đã được mở rộng hơn.

Trong lĩnh vực văn hóa, việc xây dựng nếp sống văn hoá cộng đồng là chủ trương lớn của Đảng nhằm tạo dựng lối sống lành mạnh, tốt đẹp cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, tập thể và cộng đồng thôn làng.Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII xác định quan điểm chỉ đạo cơ bản trong xây dựng nền văn hóa, “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Theo đó, cùng với việc xây dựng, củng cố các hệ giá trị chân - thiện - mỹ, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được khôi phục, phát triển, cách tân.Cùng với mức cải thiện điều kiện sống, ở nhiều làng xã, các công trình công cộng mới được xây dựng (nhà trẻ, trường học, trạm y tế, sân chơi…), các thiết chế đình, chùa, tín ngưỡng dân gian, lễ hội truyền thống và các giá trị văn hóa tinh thần khác đang được khôi phục, tôn tạo với sự quan tâm đầu tư của nhân dân và chính quyền. Các hoạt động này là môi trường cộng cảm, là chất keo gắn kết các thành viên trong cộng đồng, tạo nên cốt cách riêng của mỗi làng và gìn giữ nếp làng. Đây chính lànhân tố mang tính chiều sâu, là nền tảng bền chặt gắn bó cá nhân và cộng đồng thôn làng. Lịch sử phát triển của Hà Nội là một minh chứng về tính bền vững của giá trị văn hóa đồng bằng sông Hồng và ảnh hưởng của nó trong việc cố kết cộng đồng. Đó là việc những người con của làng quê đồng bằng sông Hồng, cho dù sống ở chốn thị thành - là “người hàng phố” qua nhiều thế hệ, nhưng vẫn luôn đau đáu tình cảm với cội nguồn quê hương, vẫn lưu truyền những giá trị văn hóa làng xã (thể hiện qua việc xây dựng các “vọng đình” ở khu phố cổ Hà Nội; người dân về tham dự lễ hội làng, việc làng, đóng góp xây dựng quê hương…). Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu, việckhôi phục vai trò của kinh tế hộ gia đình trong thời kỳ đổi mới là cơ sở của sự tái cấu trúc quan hệ cộng đồng làng truyền thống; hệ giá trị, chuẩn mực truyền thốnglàng xãđã và vẫn là những giá trị và chuẩn mực xã hội cơ bản chi phối và định hướng các hành vi ứng xử của con người trong xã hội nông thôn vùng đồng bằng sông Hồnghiện nay.

Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đổi mới, sự phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải như tình trạng phân hoá giàu -nghèo, thiếu việc làm, thiếu đất canh tác, ô nhiễm và suy thoái môi trường, mất đoàn kết,xung đột xã hội có chiều hướng gia tăng. Chính việc chuyển sang thể chế kinh tế thị trường làm cho lợi ích cá nhân bị che khuất bấy lâu trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp đã được khơi dậy, tạo động lực to lớn thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, nhưng nó cũng thúc đẩy nảy nở chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của nhiều lệch chuẩn trong phát triển, gây nên các xung đột lợi ích giữa bộ phận nắm được quyền phát triển và bộ phận thiếu quyền phát triển, giữa bộ phận phát triển hợp thức và bộ phận phát triển phi hợp thức, giữa bộ phận giàu có nhanh chóng với bộ phận thua thiệt về cơ hội phát triển... Xung đột xã hội có chiều hướng gia tăng, mà phổ biến là xung đột giữa người bị thu hồi đất với chủ sử dụng đất, giữa cộng đồng bảo tồn đức tin truyền thống với người chuyển đổi đức tin, giữa các nghề nghiệp khác nhau, giữa các nhóm lợi ích… Nhiều vụ việc, thậm chí gây rạn nứt kết cấu dòng họ, gia đình… làm xáo động kết cấu thôn, làng vốn yên bình từ bao đời nay.

Vì vậy, đi tìm giải pháp hóa giải các xung đột, phòng ngừa chuyển hóa các xung đột xã hội thành xung đột chính trị - xã hội, đảm bảo an ninh và phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Hồng là vấn đề cấp bách hiện nay, trong đó vấn đề cốt lõi là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, đảm bảo lợi ích cá nhân chính đáng kết hợp với thúc đẩy các lợi ích cộng đồng, đảm bảo giải quyết lợi ích cá nhân và cộng đồng theo hướng cùng được hưởng lợi nhiều nhất; khi có những bất đồng lợi ích cần có sự cân nhắc những điều kiện giải quyết thỏa đáng, bao gồm cả mức độ hưởng lợi hay thiệt hại của cộng đồng, của cá nhân và sự giải quyết này nên có sự tham gia của các bên liên quan. Đây là một vấn đề rất căn bản trong quản lý và phát triển nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. Điều đó đòi hỏi sự cần thiết hoàn thiện các thể chế giữ vai trò quyết định mang tính nền tảng của xã hội, trước hết là kinh tế và chính trị. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay đã và đang được xây dựng theo hướng như vậy, nhưng do thực tiễn kinh tế - xã hội vận động phát triển nhanh, nên những quy chuẩn pháp luật nào không còn phù hợp cần có sự điều chỉnh kịp thời; nếu nguyên nhân dẫn đến xung đột lợi ích thuộc về phía cơ quan quản lý thì cần làm rõ trách nhiệm và có chế tài đối với mức độ gây hậu quả nghiêm trọng về lợi ích của cộng đồng hoặc cá nhân.

Cần phát huy hơn nữa chức năng xã hội của Nhà nước trong việc xã hội hóa hơn nữa những vấn đề, những lĩnh vực có thể, đặc biệt là những vấn đề nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân hiện nay như giải phóng mặt bằng, quyền sử dụng đất đai, quản trị ô nhiễm môi trường - những vấn đề này đang gây khiếu kiện đông người ở cơ sở hiện nay, nhằm để nó không chuyển hóa thành vấn đề chính trị. Thực tế cho thấy, nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội có đối tượng thụ hưởng trực tiếp là cá nhân và các tổ chức xã hội, do vậy vấn đề quan hệ giữa các chủ thể này không nên chuyển thành vấn đề quan hệ của họ với Nhà nước, với chính quyền. Hiện nay người dân đang quan niệm đó là vấn đề quan hệ giữa họ với Nhà nước, với chính quyền. Tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp hiện nay còn có nguyên nhân ở chỗ, nhiều vấn đề nảy sinh ở cơ sở thuộc phạm vi chính sách, mà cấp xã là cấp triển khai thực hiện chính sách pháp luật chứ không phải cấp ra quyết sách nên nhiều vấn đế bức xúc của người dân địa phương liên quan đến chính sách vượt qua tầm khả năng giải quyết của thôn, của xã. Do vậy, việc hoàn thiện các thể chế kinh tế, chính trị là vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay đối với việc củng cố cộng đồng nông thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng, nông thôn cả nước nói chung.

Trong phát huy những giá trị cộng đồng truyền thống của làng xã, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản. Những vấn đề quản lý ở cấp cơ sở ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp đòi hỏi tính chuyên nghiệp và trình độ cao của chủ thể quản lý, nhưng cán bộ cấp xã hiện nay hoạt động chưa chuyên nghiệp, trình độ thấp, sự am hiểu pháp luật còn hạn chế và có xu hướng quan liêu hóa dẫn đến hiệu quả, hiệu lực quản lý hạn chế, thậm chí còn vi phạm pháp luật. Xây dựng, củng cố quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng phải trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm các lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa của nhân dân trên địa bàn, đảm bảo sự phát triển kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định của toàn vùng, đồng thời các cá nhân có đời sống kinh tế không ngừng được nâng cao, có điều kiện, cơ hội phát huy năng lực để làm giàu cho bản thân, cho quê hương đất nước. Sự tự do phát triển của cá nhân phải không làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng.

Do vậy, giải pháp chủ yếu để xây dựng, củng cốquan hệ giữa cá nhân và cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện naylà:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển bền vững vùng, đẩy mạnh chuyển dịch, tái cơ cấu kinh tế nông thôn đồng bằng sông Hồng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sản xuất hàng hóa gắn với phát triển bền vững; nâng cao năng lực thị trường của nông dân; giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh theo hướng hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội.

Hai là, phát huy vai trò của nhân tố văn hoá - xã hội, tiếp tục phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, vai trò tự quản làng xã, củng cố các thiết chế văn hóa, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, tạo lập môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh.

Ba là, giải quyết tốt quan hệ giữa xã và thôn, làng; giữa quản lý nhà nước và tự quản thôn, làng. Xã là cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà nước. Chính quyền xã là hình ảnh đại diện của Nhà nước ở nông thôn, thôn là cộng đồng tự quản. Thôn không có chức trách, thẩm quyền quản lý, không phải là cấp hành chính, không có tư cách pháp nhân. Trưởng thôn là người đại diện cho tinh thần tự quản của dân, cùng với dân trong thôn tự quản lý công việc của mình. Xã quản lý bằng pháp luật và các cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước; còn thôn tự quản bằng hương ước, luật tục, hay những thỏa ước tập thể. Cấp xã là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng, những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống. Hiện nay, chính quyền xã có thiên hướng dồn các công việc có liên quan đến dân chúng xuống các trưởng thôn, biến thôn thành nơi gánh chịu các nhiệm vụ, vốn theo luật thuộc trách nhiệm của chính quyền xã. Xu hướng này có nguy cơ biến chính quyền xã trở thành một cấp trung gian, trưởng thôn, từ người đại diện cho dân chúng, do dân chúng bầu lên để thực hiện một số nhiệm vụ và nhu cầu tự quản cộng đồng, trở thành người đại diện cho chính quyền xã, thực hành các nhiệm vụ mang tính quyền lực nhà nước. Sự đùn đẩy công việc từ cấp xã xuống trưởng thôn buộc các trưởng thôn phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công việc chung của thôn, trong lúc các trưởng thôn lại được hưởng rất ít các chế độ đãi ngộ từ phía Nhà nước. Hơn nữa, nguy cơ “hành chính hóa” thôn tạo ra hình ảnh thôn như một cấp hành chính cơ sở đã tạo ra tâm lý đòi quyền lợi của một số trưởng thôn. Do vậy, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản để sao cho phân nhiệm rõ ràng, đảm bảo về nguyên tắc hướng tới pháp quyền, củng cố quan hệ cá nhân và cộng đồng một cách bền chặt tạo sự phát triển bền vững ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2014

(1) C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin: Bàn về các xã hội tiền tư bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr.48

 

TS Nguyễn Thị Minh Tâm

Học viện Chính trị Khu vực I

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền