Trang chủ    Tin tức    Hội thảo khoa học quốc gia: “Đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới”
Thứ tư, 16 Tháng 6 2021 20:36
1801 Lượt xem

Hội thảo khoa học quốc gia: “Đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới”

(LLCT) -  Ngày 16-6-2021, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia: “Đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới”. Hội thảo được tổ chức trực tuyến tại Học viện Trung tâm, 4 học viện khu vực, Học viện Báo chí và Tuyên truyền và 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước.

GS,TS Nguyễn Xuân Thắng phát biểu khai mạc Hội thảo

Tới dự và Chủ trì Hội thảo có GS, TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; PGS, TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; PGS, TS Bùi Nhật Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Tham dự Hội thảo tại điểm cầu Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Nguyễn Đình Khang, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hoàng Đăng Quang, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Nguyễn Mạnh Cường, Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương; Trần Đức Thắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Trần Quốc Cường, Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài Học viện; các cơ quan thông tấn, báo chí tới dự và đưa tin…

Tại điểm cầu các Học viện khu vực, Học viện Báo chí và Tuyên truyền và các trường chính trị tỉnh, thành phố có đại diện lãnh đạo một số tỉnh ủy, thành ủy, Ban Giám đốc các Học viện khu vực, Ban Giám hiệu và giảng viên các trường chính trị.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ: Với tinh thần chủ động, tích cực và hết sức khẩn trương, ngay sau Đại hộiXIII, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 01- CT/TW về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tạo ra một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để các tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng đắn, vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội. Triển khai Chỉ thị số 01- CT/TW, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc để quán triệt nội dung Văn kiện Đại hội XIII tới hơn một triệu đảng viên; tạo cơ sở quan trọng để các tổ chức Đảng ở các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai quán triệt Nghị quyết Đại hội đầy đủ đến từng đảng viên. Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương đã kịp thời biên soạn hệ thống các tài liệu phục vụ việc tuyên truyền, phổ biến, nghiên cứu, học tập Văn kiện Đại hội, thật sự toàn diện và sâu sắc. Các phương tiện thông tin đại chúng đã kịp thời đăng tải các nội dung về kết quả thành công của Đại hội, những điểm mới, điểm nhấn trong hệ thống các văn kiện được Đại hội thông qua và mở chuyên mục đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII được triển khai một cách bài bản, hệ thống, kịp thời, sâu rộng và hiệu quả đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng và toàn xã hội, là những kết quả quan trọng đầu tiên góp phần thực hiện thành công nghị quyết Đại hội.

Hội thảo là dịp để các nhà khoa học, nghiên cứu lý luận, các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia hoạt động trong các lĩnh vực thực tiễn tiếp tục quán triệt đầy đủ, làm rõ và sâu sắc hơn những nội dung mới, nổi bật của Văn kiện Đại hội XIII, từ đó thảo luận, đề xuất các giải pháp triển khai, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, mang lại kết quả thành công trong thực tiễn.

Trên cở sở những vấn đề lý luận và thực tiễn mới của Đại hội XIII, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng đề nghị các nhà khoa học thảo luận, phân tích rõ hơn lý luận mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, lý luận về đường lối đổi mới của Việt Nam; tiếp tục làm sâu sắc hơn 5 bài học kinh nghiệm, 5 quan điểm chỉ đạo, 10 mối quan hệ lớn, mục tiêu, định hướng phát triển mới, 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược; chuyển từ nhận thức đúng đắn thành hành động thực tiễn, giải pháp cụ thể, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội...

Các đồng chí chủ trì Hội thảo

Phát biểu Đề dẫn Hội thảo, PGS, TS Đoàn Minh Huấn khẳng định: Đại hội XIII của Đảng là một dấu mốc đặc biệt quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, đã đưa ra những quyết định trọng đại, mở ra bước ngoặt đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI.

Đại hội XIII giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa xác định tầm nhìn dài hạn với trù liệu các mục tiêu trung hạn và ngắn hạn, giữa hoạch định mục tiêu và quản trị mục tiêu. Đại hội XIII khẳng định tầm vóc, vị thế, quyết tâm mới cả bản lĩnh, trí tuệ và trách nhiệm chính trị trước lịch sử, trước nhân dân, trước tiền đồ tương lai của dân tộc khi xác định tầm nhìn dài hạn đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, được liên thông với mục tiêu trung hạn và ngắn hạn qua các mốc  2025, 2030.

Nhận thức mới của Đại hội XIII chứa đựng cả tầm vóc tư tưởng - lý luận, năng lực định hướng chính sách và chỉ đạo thực tiễn. Chính cả ba cấp độ này đã nâng cao tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa định hướng và định hình giá trị theo đuổi, giữa lãnh đạo và cầm quyền. Ở tầm tư tưởng - lý luận đó chính là tầm nhìn, mục tiêu, hệ quan điểm, các mối quan hệ lớn có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các bài học, những đánh giá tổng kết 35 năm đổi mới.

Đánh giá về một số điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII, đồng chí Đoàn Minh Huấn cho biết, nhiều khái niệm mới lần đầu tiên xuất hiện trong các văn kiện Đại hội XIII không chỉ phản ánh về mặt nội dung mà cả chứa đựng phương thức phát triển mới, như các khái niệm quốc gia phát triển, quản trị quốc gia, chỉ số hạnh phúc, kinh tế tuần hoàn,… hoặc cơ cấu lại mối quan hệ giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa yếu tố trong nước và yếu tố quốc tế, giữa đô thị và nông thôn, giữa động lực vật chất và động lực tinh thần, giữa tài nguyên hữu hình và tài nguyên vô hình.

Đồng chí Đoàn Minh Huấn mong muốn các nhà khoa học vớivới tâm huyết, trách nhiệm và phương pháp trình bày hiệu quả, các tham luận và ý kiến của mỗi đại biểu sẽ góp phần nêu bật, làm rõ những nhận thức lý luận mới của Đại hội XIII để nâng cao khả năng thâm nhập thực tiễn, tạo ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng, tiếp tục làm nên thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.

Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tuyến

Với gần 60 tham luận gửi đến Ban tổ chức và 8 tham luận tại Hội thảo, 16 ý kiến phát biểu bình luận, trao đổi làm sâu sắc hơn những nội dung trong các tham luận và chủ đề Hội thảo, các đại biểu, nhà khoa học đã trình bày những nội dung trọng yếu, những điểm mới trong các Nghị quyết của Đại hội XIII, trên cơ sở đó nắm vững, sâu sắc hơn tinh thần mà các Nghị quyết Đại hội nêu ra, bao gồm:

Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về cơ đồ, vị thế của dân tộc cũng như tình hình khu vực, quốc tế, thời đại và đất nước và tầm nhìn phát triển của dân tộc đến năm 2030 và 2045 mà Văn kiện Đại hội nêu ra. Trên cơ sở đó tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Hội thảo cũng khẳng định, hệ quan điểm chỉ đạo, cách tiếp cận xác định mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá chiến lược mà Đại hội nêu ra là những vấn đề lý luận lớn, có tính định hướng cho sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Thứ hai, Hội thảo xác định, tư tưởng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh văn hóa, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh dân tộc và thời đại là tư tưởng rất mới, thực sự là nhân tố thể hiện sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Đây cũng là yếu tố làm sâu sắc hơn chủ trương đặt con người vào trung tâm của sự phát triển, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Thứ ba, Hội thảo phân tích, nhận thức sâu sắc hơn các mối quan hệ lớn trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Những vần đề lý luận và thực tiễn về 10 mối quan hệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xác định quy luật và tính quy luật của đổi mới và phát triển ở nước ta, cũng như làm rõ hơn những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tạo ra động lực của đổi mới và phát triểntoàn diện  đất nước  trong thời kỳ mới. 10mối quan hệ được nêu trong văn kiện Đại hội XIII góp phần vào việc củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại mới.

Thứ tư, Hội thảo trao đổi, phân tích sâu sắc 5 bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XII mà Văn kiện Đại hội nêu ra. Mỗi bài học là một vấn đề lý luận lớn, sâu sắc có tính chất chiến lược, làm cơ sở để xác định quan điểm, mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trong đó đặc biệt là vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện và phát huy vai trò của nhân dân.

Về xây dựng Đảng:Hội thảo thống nhất nhận định: “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiên chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiến quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến", “tự chuyển hóa" trong nội bộ; đấy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Về phát huy vai trò của nhân dân: Hội thảo xác định, các quan điểm của Đảng về phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, có ý nghĩa chiến lược, tạo động lực cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đảng xác định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm điểm “dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tố quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”. 

Thứ năm, các đại biểu, các nhà khoa học cho rằng, tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi là một tư tưởng mới, đột phá, có tính thời đại sâu sắc, phù hợp với xu thế hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải nhạn thức sâu sắc tư tưởng này để tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực thúc đẩy sự phát triển nhan và bền vững của đất nước. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy nội lực, như là yếu tố nội sinh cho sự phát triển. Điều này rất quan trọng đối với nước ta khi nguồn lực tài chính cho sự phát triển có hạn, trong khi nguồn lực con người lại dồi dào, phong phú. Nếu phát huy tốt nguồn lực con người, nguồn lực nội sinh sẽ bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.

Thứ sáu, các đại biểu và các nhà khoa học đã trao đổi, thảo luận và thống nhất, lý luận phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Đúng như nhận định trong bài viết quan trọng mới đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Trên cơ sở đó, các nhà khoa học cũng đề xuất những giải pháp, đề xuất để xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đề xuất giải pháp để nhận thức những quy luật của kinh tế thị trường và xây dựng quan hệ sản xuất XHCN trên ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. 

Các nhà khoa học cũng thống nhất nhận thức rằng, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ bảy, các nhà khoa học đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, thích ứng với sự biến đổi của khu vực và thế giới. Trong đó, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh là yếu tố trọng tâm. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Định hướng về phát triển kinh tế gắn với các định hướng về xây dựng, hoàn thiện thể chế, về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; về phát triển con người và xây dựng nền văn hóa; về quản lý phát triển xã hội; về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường; về bảo vệ Tổ quốc; về đối ngoại; về đại đoàn kết toàn dân tộc; về xây dựng Nhà nước và về xây dựng Đảng.

Thứ tám, tại Hội thảo, các nhà khoa học đã đề xuất giải pháp, kiến nghị về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, huy động nguồn lực cho phát triển. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”.

Phát biểu bế mạc Hội thảo, GS, TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ươngkhẳng định, Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới”đã thành công tốt đẹp, hoàn thành mục đích đặt ra là góp phần phổ biến, tuyên truyền, quán triệt đầy đủ và sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về các Văn kiện Đại hội XIII; đề xuất những giải pháp khẩn trương xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch hành động, phát động để đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Những thành công của Hội thảo sẽ góp phầnxây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch hành động, phát động phong trào thi đua yêu nước sâu rộng, tinh thần đổi mới sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để sớm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, biến những quyết định của Đại hội thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong thời gian tới.

Trên cơ sở những kết quả đạt được tại Hội thảo, đồng chí Tạ Ngọc Tấn đề nghị các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu làm sáng rõ thêm một số nội dung để thống nhất nhận thức.

Một là, khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đó là nhân tố quyết định cho sự ổn định, đổi mới và phát triển.

Hai là, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Từ khi ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Giai đoạn 1930-1931, lãnh đạo phong trào cách mạng Xô-viết Nghệ Tĩnh; giai đoạn 1939 - 1945, lãnh đạo tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên vị trí lãnh đạo, trở thành cầm quyền; giai đoạn 1946-1954, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; giai đoạn 1954-1975, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng CNXH trên đất nước Việt Nam.

35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện thành công. Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Ba là, xác định chủ thể của sự nghiệp xây dựng CNXH là quần chúng nhân dân. Hoạt động của quần chúng nhân dân là động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng.

Quần chúng nhân dân là chủ nhân chân chính của lịch sử - người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Do vậy, phải biết dựa vào nhân dân,phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân, của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ trương đổi mới của Đảng. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp,chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, là bản chất của chế độ XHCN.

Bốn là, cần tiếp tục nhận thức và bổ sung những vấn đề lý luận về CNXH và mô hình CNXH ở Việt Nam. Tập trung vào việc nhận thức sâu sắc hơn và bổ sung các mối quan hệ lớn (chủ yếu) trong thời kỳ xây dựng CNXH, coi đó như là vấn đề có tính quy luật của sự phát triển. Đây là vấn đề lý luận rất lớn và sâu sắc mà Đảng ta đã xây dựng nên. Tập trung vào việc phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong 5 bài học kinh nghiệm mà Đảng nêu ra trong Văn kiện Đại hội XIII. Qua đó, có những đề xuất, kiến nghị với Trung ương để tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh hệ thống lý luận của Đảng.

 

Minh Phương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền