Trang chủ    Tin tức    Hội thảo "Tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992"
Thứ ba, 03 Tháng 12 2013 09:26
2191 Lượt xem

Hội thảo "Tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992"

(LLCT) - Ngày 15-11-2012, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của GS, TS Tạ Ngọc Tấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đã diễn ra Hội thảo khoa học của Học viện về “Tổng kết thi hành Hiến pháp 1992”. Tham dự Hội thảo có đông đảo các nhà khoa học của Học viện với gần 30 báo cáo tham luận. GS, TS Tạ Ngọc Tấn đã có bài phát biểu đề dẫn.

 

(GS,TS Tạ Ngọc Tấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện phát biểu tại Hội thảo)

 

I.ĐÁNH GIÁ HIẾN PHÁP 1992

1. Về chế độ chính trị

Nhiều ý kiến tại Hội thảo tập trung phân tích những quy định liên quan đến vấn đề quyền lực của nhân dân và cho rằng:Quyền lực nhân dân ở nước ta đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 tương đối rõ ràng, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 chưa thể hiện rõ nhân dân là "chủ thể gốc" của quyền lực nhà nước, nghĩa là chủ thể quyền lực nhà nước là nhân dân, bản thân các cơ quan nhà nước không có quyền. Quyền của các cơ quan nhà nước là do nhân dân - chủ thể gốc - uỷ thác cho. Nhà nước, cơ quan nhà nước chỉ là người thực hành quyền lực của nhân dân.

Hiến pháp 1992 cũng chưa làm rõ được: "Quyền làm chủ của nhân dân" bao hàm những nội dung gì, cách thức, cơ chế để nhân dân thực hiện quyền đó ra sao?  Cách ghi ở Điều 3, Hiến pháp 1992: "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân" có thể được hiểu là Nhà nước mới là chủ thể quyền lực, ban phát quyền cho nhân dân.

Điều 6 ghi: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp", như vậy, nhân dân ở vị thế thụ động. Hơn nữa, các hoạt động hàng ngày của Nhà nước không chỉ là hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp mà còn nhiều cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Với tư cách là chủ thể của quyền lực, nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực nhà nước một cách gián tiếp, mà còn  trực tiếp thực hiện các công việc nhà nước và xã hội.

2. Về chế độ kinh tế

Cơ cấu đa thành phần của nền kinh tế được Hiến pháp 1992 xác định gồm: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế theo tinh thần của Hiến pháp 1992 cũng cho thấy trong một số lĩnh vực và một số vấn đề pháp lý đã xuất hiện các bất cập và khó khăn. Quá trình phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong những năm gần đây đặt ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, ngoài ngân sách và dự trữ nhà nước với tư cách tiềm lực kinh tế để thực thi luật và chính sách kinh tế, bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước đã ít nhiều không đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân trên hai phương diện: tính minh bạch và hiệu quả.

Thứ hai, trên thực tế kinh tế tập thể (chủ yếu là các hợp tác xã) liệu có thể gánh vác vai trò cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân không?

3. Về vấn đề văn hóa, khoa học, giáo dục

Hiến pháp năm 1992 quy định: phát triểngiáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo theo Hiến pháp năm 1992, nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là việc xoá nạn mù chữ, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và hiện đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở.         

4. Về vấn đề quyền con người, quyền công dân

Thứ nhất: Các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền công dân.

Các tham luận về vấn đề này đều khẳng định sự tiến bộ của Hiến pháp 1992. Theo Hiến pháp năm 1992, quyền công dân được mở rộng hơn so với các bản Hiến pháp trước. Nếu Hiến pháp 1946 ghi nhận có 12 quyền, Hiến pháp 1959 ghi nhận 20 quyền và Hiến pháp 1980 quy định 28 quyền, thì Hiến pháp 1992 ghi nhận 32 quyền cơ bản. Điều đáng chú ý là Hiến pháp 1992 đã cân nhắc đến tính khả thi khi xác định quyền và nghĩa vụ công dân, tránh xu hướng chủ quan, duy ý chí trong công tác lập pháp, rà soát kỹ các quy phạm pháp luật cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với nhận thức sâu sắc hơn về quyền con người trong bối cảnh quốc tế mới, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam có quy định riêng về quyền con người. Điều 50 của Hiến pháp khẳng định; “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Điều 51 khẳng định Nhà nước bảo đảm các quyền công dân. Với các quy định trên đây, mọi người ở Việt Nam, kể cả có quốc tịch hay không có quốc tịch Việt Nam đều có đầy đủ các quyền con người cơ bản: dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đây là nhận thức hiện đại, đầy đủ về các quyền con người, tương thích với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc.

Hiến pháp 1992 quy định các quyền con người, quyền công dân và khẳng định nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền của con người và công dân đã tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa con người và nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm chính trong thực hiện việc bảo đảm các quyền con người và quyền công dân ở nước mình. Không có sự bảo đảm của Nhà nước, các cơ chế bảo đảm và thực hiện các quyền nói trên sẽ rất hạn chế hoặc khó có thể được thực hiện. Mặt khác, khi tất cả mọi người đều thực hiện các quyền của mình theo ý mình, thì tất yếu sẽ xảy ra sự xung đột về lợi ích, kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, nên nhà nước phải có cơ chế để ngăn chặn, hạn chế sự vi phạm quyền của người khác, bảo vệ quyền của mọi người, bảo vệ sự ổn định và năng động của xã hội.

Hiến pháp 1992 cũng khẳng định nguyêntắc quan trọng của nhà nước pháp quyền: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52)

Trong Hiến pháp 1992, lần đầu tiên trên cơ sở phát triển thực tế của cuộc sống, nhiều quyền quan trọng mới đã được bổ sung, trong đó gồm quyền tự do kinh doanh của công dân (Điều 57), quyền sở hữu “về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58). Đây là những quyền kinh tế quan trọng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, tạo cho họ có cuộc sống ấm no, thịnh vượng, góp phần xây dựng cơ sở vật chất để bảo đảm các quyền cơ bản khác.

 Thứ hai: Về kỹ thuật quy định vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992. 

Có ý kiến cho rằng kỹ thuật xây dựng các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992 đã có những bước tiến bộ quan trọng so với các Hiến pháp trước, nhưng còn thể hiện một số bất cập, hạn chế sau đây:

Một là, chưa thực sự nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp.

Hai là, thiết kế chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 chưa thực sự bảo đảm tính khoa học về kỹ thuật lập hiến, gây khó khăncho việc hiểu và thực thi các quyền và tự do cơ bản của công dân trongthực tiễn.

Ba là, Nhà nước Việt Nam hiện nay là một bên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người, tuy nhiên một số quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992 chưa bảo đảm tính tương thích với các quy chuẩn của quốc tế.

Bốn là, quy định về mối quan hệ giữa quyền đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm như trong một số quy định của Hiến pháp 1992 chưa bảo đảm tính khoa học về kỹ thuật lập hiến, chưa phù hợp với thực tiễn.

Thứ ba: Về khả năng áp dụng,thực thi quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp 1992.

Các quy định của Hiến pháp 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tạo cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới bảo đảm quyền con người; Nhiều quyền và tự do cơ bản của cá nhân, công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1992 bước đầu theo nguyên tắc giới hạn quyền lực nhà nước, ngăn ngừa nguy cơ xâm phạm quyền của cá nhân, công dân.

Một số ý kiến cho rằng, bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn thực thi các quy định của Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã và đang bộc lộ một số mặt hạn chế như sau:

Một là, nhiều quyền và nghĩa vụ được quy định trong Hiến pháp mớidừng lại là những tuyên bố mang tính chất cương lĩnh.

 Hai là, thiếu cơ chế thực thi, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân trong Hiến pháp.

Ba là, việc Hiến pháp quy định công dân có quyền nào đó “theo quy định của pháp luật”, nhưng không có sự ràng buộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc kịp thời ban hành văn bản pháp luật cụ thể về quyền đó nên người dân không thể thực hiện được những quyền này trong thực tế.

5. Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Về Quốc hội

Nhiều ý kiến thống nhất là, thứ nhất, về vị trí pháp lý, Quốc hội được xác định là cơ quan có vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng: “là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, song trong thực tế hoạt động Quốc hội chưa thể hiện được vị trí quan trọng này, thậm chí hoạt động của Quốc hội vẫn mang tính hình thức.

Thứ hai, Điều 83 của Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Quy định này cần  xem xét lại, bởi lẽ, để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì quyền lập hiến không thể duy nhất thuộc về Quốc hội.

Thứ ba, những quy định liên quan đến quyền giám sát của Quốc hội chưa xác định rõ phạm vi giám sát của Quốc hội. Quốc hội chỉ giám sát ở “tầng cao nhất” của bộ máy nhà nước hay giám sát tất cả các cơ quan nhà nước, cả ở trung ương và địa phương? Bên cạnh đó, các quyền bỏ phiếu tín nhiệm, quyền điều tra trong những trường hợp cần đưa ra bỏ phiếu... đã được Hiến pháp quy định nhưng chưa được làm sáng tỏ, Quốc hội hầu như chưa thực hiện quyền này, vì vậy hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội còn hạn chế.

Về Chính phủ

 Điều 109 Hiến pháp quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất chính là thể hiện tính không bình đẳng, quan hệ điều khiển, chỉ huy và tính mệnh lệnh, phục tùng trong tổ chức, điều hành của nền hành chính như vậy là phù hợp. Nhưng quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thì cần phải được nghiên cứu lại. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định này dễ dẫn đến quan niệm Chính  phủ như một cơ quan cấp dưới của Quốc hội. Quy định này đã không phản ánh đúng tính chất và vị trí của Chính phủ trong tổ chức thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam theo  nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp,  hành pháp và tư pháp, trong đó Chính phủ được phân công thực thi quyền hành pháp. Theo nguyên tắc phân công này thì chức năng của Quốc hội là làm luật, còn Chính phủ là tổ chức thi hành luật. Về bản chất, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, tức là quyền tổ chức thi  hành luật, chứ không phải là chấp hành các mệnh lệnh của Quốc hội. Mặt khác, cũng không  nên hiểu một cách đơn giản rằng Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành, phục tùng những nghị quyết, các đạo luật của Quốc hội. Thực thi quyền hành pháp không chỉ đơn thuần là quyền tổ chức thi hành luật mà Chính phủ còn thực hiện nhiều quyền năng khác trong tổ chức và điều  hành bộ máy hành chính nhà nước.

Vấn đề chịu trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội chưa được quy định cụ thể. Đối với Thủ tướng Chính phủ thì theo hai con đường: một là, Quốc hội tiến hành miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng khi có đề nghị của Chủ tịch nước; hai là, Quốc hội quyết định bỏ phiếu tín nhiệm theo trình bày của Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa chỉ rõ hình thức trách nhiệm cụ thể cũng như trình tự xử lý trách nhiệm ra sao.

Về Tòa án nhân dân

Thứ nhất,thẩm quyền xétxử của mỗi loạiToà ánhiện được quy định chưa hợp lý. Cụ thể là Toà án cấp huyện  xét xử sơ thẩm, các Toà án cấp trên vừa  xét xử phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Toà án nhân dân tối cao, hoặc xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Toà án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Toà án mỗi cấp quy định trong hệ thống Toà án.

Thứ hai,Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Toà án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức vì vậy dẫn đến tình trạng tồn đọng án khá nhiều.

Toà án nhân dân cấp tỉnh, vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, ngoài ra cũng có nhiệm vụ nhiệm vụ quản 1ý các Tòa án cấp huyện về tổ chức theo phân cấp. Vì vậy, công việc của Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng rất nặng nề. Toà án nhân dân cấp huyện được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên có nhiều đầu mối và có nơi quá tải nhưng có nơi rất ít việc.

Thứ ba,theo quy định hiện nay, Toà án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, nên hoạt động của toà án một mặt không bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật, mặt khác chịu chi phối của địa phương về tổ chức và hoạt động.

Về Viện Kiểm sát nhân dân

Thực tiễn thi hành Hiến pháp thời gian qua của Viện Kiểm sát đã đạt được những kết quả như sau: 1/Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đã được đề cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới; 2/ Các văn bản pháp luật hiện hành bao gồm Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính đã tạo ra khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ chi tiết cho việc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình theo hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Về việc bảo đảm nguyên tắc hiệu lực tối cao của Hiến pháp

Hiến pháp hiện hành đã thể hiện một số yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Cụ thể là:

Thứ nhất, Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Thứ hai, hiệu lực tối cao của Hiến pháp trong hệ thống văn bản pháp luật.

Thứ ba, tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp là nghĩa vụ và yêu cầu đối với mọi chủ thể trong xã hội.

Như vậy, nguyên tắc về hiệu lực tối cao của Hiến pháp đã được quy định trong Hiến pháp 1992 khá cụ thể, nhưng nếu đối chiếu với các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì mức độ khẳng định các yêu cầu nguyên tắc này chưa toàn diện và đủ mạnh. Việc quy định về sửa đổi Hiến pháp chỉ do Quốc hội tiến hành với 2/3 số đại biểu biểu quyết thông qua tuy là đòi hỏi cao hơn so với ban hành và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật khác nhưng như vậy chưa đủ để thật sự bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Trong Hiến pháp hiện hành chưa có sự nhất quán giữa nguyên tắc bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp và nguyên tắc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân bởi lẽ quyền lập hiến được quy định duy nhất thuộc về Quốc hội, nhân dân chỉ có thể tham gia góp ý kiến xây dựng Hiến pháp chứ chưa có quyền biểu quyết thông qua Hiến pháp.

II. KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI
HIẾN PHÁP 1992

1. Về quan điểm sửa đổi Hiến pháp 1992

Hiện nay có hai quan điểm sửa đổi Hiến pháp 1992: Một là, sửa đổi cơ bản và toàn diện Hiến pháp 1992. Hai là, giữ lại những nội dung hợp lý, chỉ sửa những nội dung không rõ ràng, mâu thuẫn hoặc bất cập không phù hợp thực tế trong Hiến pháp 1992.

Đa số các nhà khoa học trong Học viện cho rằng: cần kết hợp giữa hai quan điểm này. Sửa đổi Hiến pháp lần này sẽ là sửa cơ bản và toàn diện theo những nhận thức mới về Hiến pháp. Cơ bản và toàn diện thể hiện trong cả nội dung và cách thức biểu đạt bảo đảm tính cô đọng, khái quát, phản ánh được tư tưởng chủ quyền của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; ghi nhận và bảo đảm thực hiện những giá trị xã hội vĩnh hằng về tự do, dân chủ, bình đẳng, quyền con người. Các chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội là các thiết chế bảo đảm chủ quyền của nhân dân, bảo đảm tự do, bình đẳng, quyền con người... Hiến pháp phải bảo đảm tính ổn định lâu dài, đó là tuyên ngôn về những gì đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân công nhận và mong muốn hướng tới.

Hiến pháp mới phải hướng đến những giá trị của Nhà nước pháp quyền: bảo đảm chủ quyền của nhân dân; thượng tôn pháp luật; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp; bảo đảm tính độc lập của Toà án khi xét xử; bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của chính quyền.

Quan điểm sửa đổi Hiến pháp như thế nào không chỉ tác động đến việc sửa đổi nội dung của Hiến pháp mà còn ảnh hưởng đến quy trình, thủ tục sửa đổi Hiến pháp. Nếu sửa cơ bản và toàn diện cần phải mở rộng thành phần Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tăng thêm thời gian và phải đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân.

Quy trình sửa đổi Hiến pháp phải chặt chẽ, được toàn dân góp ý kiến tham gia xây dựng và bỏ phiếu phúc quyết thì Hiến pháp mới trở thành khế ước chung của xã hội, mới là tuyên ngôn của dân tộc, mới trở thành "thiêng liêng", và như vậy Hiến pháp  sẽ được tôn trọng thực sự và bảo đảm thực thi trong thực tiễn.

2. Kiến nghị sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992

Trên tinh thần quán triệt quan điểm đã được khẳng định trong Cương lĩnh sửa đổi và Văn kiện Đại hội XI vừa qua, các nhà khoa học của Học viện kiến nghị một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp như sau:

a) Về chế độ chính trị:Cần khẳng định chủ quyền tối cao của nhân dân, khẳng định bản chất của Nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước, xác lập rõ ràng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xác lập (một cách tổng quát) cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN.

- Điều 2 cần được sửa lại như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước được thực thi trên cơ sở phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

- Về việc nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, đề nghị quy định như sau: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra và thông qua việc nhân dân quyết định trực tiếp. Các cơ quan nhà nước đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân”.

- Cần phải hiến định  nguyên  tắc  phân  công  thực  thi  quyền  lực  nhà  nước theo quan điểm đã được khẳng định trong Cương lĩnh phát triển đất nước cũng như trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. Theo đó, cần ghi nhận ở các điều liên quan rằng, Quốc hội được phân công thực thi quyền lập pháp, Chính phủ được phân công thực thi quyền hành pháp và Tòa án được phân công thực thi quyền tư pháp.

b) Về chế độ kinh tế:

- Điều 15 cần được sửa đổi như sau: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; Nhà nướcphát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

c) Về vấn đề quyền con người, quyền công dân

-Nghiên cứu thay đổi nguyên tắc chung ở Điều 51 về quyền gắn với nghĩa vụ bằng quy định:“Công dân khi thực hiện các quyền và tự do của mình không được xâm phạm quyền và tự do của người khác, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội...

Đồng thời với quy định này, nên chỉ rõ những quyền có thể kèm theo các giới hạn như được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.

- Hiến pháp cần khẳng định mạnh mẽ các quyền sống, bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm... như những quyền tối thiểu, căn bản của con người tuyệt đối phải được tôn trọng và do đó trách nhiệm đền bù của cơ quan nhà nước khi những quyền đó bị cơ quan và công chức nhà nước xâm hại.

- Hiến pháp không nên nêu “Các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa” vì nêu như vậy sẽ không thể hiện được hết nội dung quyền con người. Mặt khác, bên cạnh quyền con người của các cá nhân, còn có quyền của các quốc gia, dân tộc, quyền của các nhóm người như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền của người khuyết tật... Do đó Hiến pháp chỉ cần nêu “quyền con người” là đủ và quy định như vậy đủ độ mở để sau này quyền con người được bổ sung, phát triển mà quy định của Hiến pháp vẫn phù hợp, không bị lạc hậu với thực tiễn.

- Bên cạnh quy định về bảo đảm quyền con người, Hiến pháp cũng cần được bổ sung thêm một số quy định về nghĩa vụ của công dân nhằm góp phần bảo đảm thực thi quyền con người.

d) Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước:

Quốc hội:

 Quốc hội nên được hiểu là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước chứ không  phải là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi Điều 83 như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội được phân công thực thi quyền lập pháp, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành Hiến pháp và luật”.

Đồng thời, bổ sung vào Hiến pháp một điều về quyền quyết định sửa đổi Hiến pháp thuộc về nhân dân

Chính phủ:

Đề nghị nên sửa đổi, bổ sung Điều 109 của Hiến  pháp 1992 theo hướng Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, đồng thời khẳng định rõ Chính phủ được phân công thực thi quyền hành pháp và bỏ quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Về Tòa án, Viện Kiểm sát:

Trong tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, Tòa án được phân công thực hiện quyền  tư pháp. Theo đó, Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa  phương, các tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Mặt khác, Hiến pháp khẳng định một trong những nguyên tắc tối thượng trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đó là Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 

Viện Kiểm sát vừa được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, vừa được  giao nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tuy nhiên, nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian tới theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về hình thành cơ quan công tố, chắc chắn đây sẽ là vấn đề nên được cân nhắc trong việc sửa đổi  Hiến pháp tới đây, gắn liền với cải cách hệ thống các cơ quan Viện Kiểm sát. Đề nghị việc sửa đổi Hiến pháp lần này nên cân nhắc đến việc chuyển Viện Kiểm sát thành cơ quan công tố thuộc Chính phủ, chỉ làm chức năng công tố, không làm chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nữa.

e) Về bảo đảm nguyên tắc hiệu lực tối cao của Hiến pháp:

Nguyên tắc hiệu lực tối cao của Hiến pháp chỉ thực sự được xác lập một cách đầy đủ khi bảo đảm rằng Hiến pháp đó là của nhân dân, thể hiện ý chí tối cao của nhân dân, hoạt động xây dựng, sửa đổi Hiến pháp phải bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Và do vậy, ban hành Hiến pháp là quyền của Quốc hội, nhưng Hiến pháp phải đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Quyền lập hiến quy định quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, tức là quyền lập hiến chứa đựng tất cả quyền lực nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” trước hết phải bảo đảm nhân dân có quyền góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp và bỏ phiếu quyết định Hiến pháp.

 

TS Tào Thị Quyên

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ CHí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền