ThS VŨ THỊ BÍCH
Học viện Chính trị khu vực IV
(LLCT) - Bảo đảm an ninh con người là nội dung quan trọng gắn liền với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực trên thế giới. Bài viết đánh giá thực trạng bảo đảm an ninh con người ở đồng bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc bảo đảm an ninh con người trên địa bàn trong thời gian tới.
Nhờ thiên nhiên ưu đãi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp nên ĐBSCL không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho toàn vùng mà còn là vựa lúa lớn của cả nước - Ảnh: baodantoc.vn
1. Đặt vấn đề
Năm 1994, khái niệm an ninh con người lần đầu tiên được đề cập đến trong Báo cáo Phát triển Con người của Liên hợp quốc (UNDP); năm 2003, Ủy ban An ninh con người của UNDP đưa ra khái niệm: an ninh con người là sự an toàn trước những mối đe dọa như đói khát, bệnh tật và áp bức, bảo vệ khỏi sự cố bất ngờ hoặc những tổn hại trong cuộc sống tại nơi làm việc, ở nhà hay trong cộng đồng.
Theo cách tiếp cận của UNDP, an ninh con người gồm 7 thành tố cơ bản: (1) an ninh kinh tế (bảo đảm có nguồn thu nhập đủ sống, giảm chênh lệch giàu nghèo, cơ hội việc làm); (2) an ninh lương thực (tiếp cận được nguồn lương thực, gồm số lượng, chất lượng và giá cả); (3) an ninh y tế (tránh được bệnh, dịch, cơ hội tiếp cận hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe); (4) an ninh môi trường (tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh, không khí sạch và đất đai không bị bạc màu); (5) an ninh cá nhân (tránh những hành vi bạo lực thân thể và bị đe dọa); (6) an ninh cộng đồng (bảo đảm cơ hội phát triển, giữ gìn được bản sắc văn hóa, trật tự an toàn xã hội); (7) an ninh chính trị (bảo đảm tự do và các quyền con người cơ bản, vấn đề minh bạch và chống tham nhũng).
2. Quan điểm của Đảng về bảo đảm an ninh con người
Vấn đề bảo đảm an ninh con người đã được Đảng ta thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đến Đại hội XII của Đảng (năm 2016), thuật ngữ “an ninh con người” mới được đề cập trong Văn kiện Đại hội. Đại hội XII xác định: “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông; bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người”(1).
Tại Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021), vấn đề an ninh con người và bảo đảm an ninh con người tiếp tục được đề cập ở nhiều nội dung. Thứ nhất, trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, có 2 định hướng đề cập đến vấn đề an ninh con người. Đó là, “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”(2); và “Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự kỷ cương”(3). Thứ hai, phần nhiệm vụ, giải pháp phát triển đất nước 5 năm (giai đoạn 2021-2025) xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”(4). Thứ ba, nội dung về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người”(5). Thứ tư, Đại hội XIII xác định sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có nhiệm vụ đề cập đến vấn đề an ninh con người, đó là: “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”(6).
Tư tưởng về an ninh con người và bảo đảm an ninh con người được thể hiện xuyên suốt trong Văn kiện XIII của Đảng. Đảng ta đã đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động. Bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị, xã hội, xây dựng và phát triển đất nước trường tồn, thịnh vượng.
3. Thực trạng bảo đảm an ninh con người ở đồng bằng sông Cửu Long
Bảo đảm an ninh con người ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong giai đoạn hiện nay là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, bảo đảm an ninh con người là một nội dung quan trọng đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Bởi, con người vừa là chủ thể, vừa là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu phát triển của mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Thứ hai, ĐBSCL là địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước. Vì vậy, thực hiện tốt bảo đảm an ninh con người có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của vùng nói riêng và cả nước nói chung.
Thứ ba, ĐBSCL đang có nhiều thách thức trực tiếp đến việc bảo đảm an ninh con người: (1) biến đổi khí hậu tác động tiêu cực và khó lường; các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra với tần suất nhiều hơn; hiện tượng xâm nhập mặn làm thiếu nước sinh hoạt và sản xuất, diện tích đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp, mưa, lũ, sạt lở đất,… (2) ĐBSCL là nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là đồng bào các dân tộc Kinh, Khơme, Hoa, Chăm và là vùng có sự đa dạng về tôn giáo (với 13 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân và nhiều tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động). Đồng bào các dân tộc, tôn giáo trong vùng đoàn kết, góp phần tích cực vào sự phát triển của vùng. Tuy nhiên, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, các thế lực thù địch tăng cường thực hiện âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết trong vùng, ảnh hưởng đến vấn đề an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và sự bình yên trong cuộc sống của người dân.
Thành tựu
An ninh kinh tế: thu nhập bình quân đầu người ở ĐBSCL có sự gia tăng nhanh, tính đến năm 2020 tăng 8 lần so với năm 2004, đạt 46,47 triệu đồng/năm, xếp thứ 3/6 vùng của cả nước. Tăng trưởng GRDP giai đoạn 2011 - 2015 đạt 6,4%, giai đoạn 2016-2020 đạt 5,8%, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước(7). Đến năm 2022, GRDP bình quân đầu người của vùng ước đạt 65,5 triệu đồng/người/năm(8). Tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người là dấu hiệu cho cuộc sống của người dân trong vùng ngày càng được cải thiện và ổn định.
Cùng với sự gia tăng nhanh về thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ nghèo tại ĐBSCL qua các giai đoạn cũng giảm đáng kể, thấp hơn bình quân tỷ lệ hộ nghèo của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 4,8% năm 2019 xuống còn 4,2% năm 2020, đến năm 2021 giảm còn 3,8% và năm 2022 giảm còn 4,0%(9).
Để đạt được những kết quả trên, trong những năm qua, nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động ban hành các chính sách đặc thù trong lĩnh vực giảm nghèo trên địa bàn như: tỉnh Trà Vinh hỗ trợ đất ở cho hộ nghèo; tỉnh Đồng Tháp hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, tham gia chương trình du học theo hình thức vừa học, vừa làm; tỉnh Vĩnh Long hỗ trợ dự án phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo,… Nhờ đó, sinh kế của người dân trong vùng dần được ổn định, góp phần tạo việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp(10). Theo số liệu thống kê, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của vùng năm 2022 là 2,76%, tỷ lệ này thấp hơn so với các năm trước đó(11).
An ninh lương thực: ĐBSCL là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn quả nhiệt đới lớn nhất Việt Nam, với tổng số 2.575,2 nghìn ha đất dùng cho sản xuất nông nghiệp, chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng(12). Nhờ thiên nhiên ưu đãi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp nên ĐBSCL không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho toàn vùng mà còn là vựa lúa lớn của cả nước, góp phần nâng cao sản lượng thóc, gạo dự trữ và xuất khẩu của quốc gia. ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản lượng gạo, tôm nước lợ, cá tra và trái cây, với 24,51 triệu tấn gạo (chiếm 56% tổng sản lượng cả nước), 671,7 nghìn tấn tôm (chiếm 83,51% cả nước), 1,41 triệu tấn cá tra (chiếm 94%) và 4,3 triệu tấn trái cây (chiếm 60%)(13).
An ninh y tế: trong giai đoạn 2004 - 2022, hệ thống cơ sở y tế trong vùng được hoàn thiện hơn. Số bác sĩ, số giường bệnh tăng, đáp ứng yêu cầu khám và chữa bệnh của nhân dân trong vùng. Bảng 1 thể hiện sự gia tăng về số lượng giường bệnh và số bác sĩ trên 1 vạn dân.
Bảng 1: Số giường bệnh và số bác sĩ trên 1 vạn dân
Năm | Số giường bệnh | Số bác sĩ |
2004 | 17,8 | 5,88 |
2020 | 24,3 | 7,6 |
2022 | 29,77 | 7,65 |
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Chỉ số sức khỏe của người dân có những cải thiện tích cực. Một số chỉ tiêu thực hiện tốt hơn mức trung bình của cả nước như tỷ lệ tử vong ở trẻ em, suy dinh dưỡng, 94,3% trạm y tế có bác sĩ làm việc, 98% trạm y tế có nữ hộ sinh, 87,9% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động(14). Đội ngũ y, bác sĩ và cán bộ quản lý y tế phát triển nhanh về số lượng và trình độ chuyên môn, có năng lực, y đức tốt, có khả năng đáp ứng yêu cầu triển khai các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong khám và điều trị. Nhờ những thành tựu trên, người dân trong vùng được thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tương đối tốt.
An ninh môi trường: công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của vùng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được chú trọng; tài nguyên thiên nhiên được khai thác có hiệu quả, bảo đảm môi trường và cân bằng sinh thái, từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”.
Một số chỉ tiêu về môi trường đạt kết quả cao. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch ở nông thôn đạt 67,3%, tỷ lệ này cao gấp 4 lần so với năm 2004 và cao hơn so với bình quân cả nước là 16,3%; tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90,3%, cao hơn bình quân cả nước là 1,8%(15). Năm 2022, tỷ lệ này đạt 98,5%, cao hơn 0,5% so với mức trung bình chung của cả nước(16).
An ninh cá nhân và an ninh cộng đồng: trong những năm qua, tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong vùng được giữ vững. Công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm được thực hiện hiệu quả. Từ năm 2003 - 2020, lực lượng công an đã phát hiện và xử lý hơn 63 nghìn vụ liên quan đến kinh tế và buôn lậu(17), lực lượng chức năng đã bắt nhiều vụ án liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong các dịp lễ tết, lực lượng quân đội và công an tổ chức các đợt ra quân nhằm bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sự bình yên cho cuộc sống của người dân. Công tác biên giới, lãnh thổ được các địa phương trong vùng quan tâm và cơ bản giữ vững ổn định. Nhờ đó, người dân có cuộc sống an toàn, không bị các mối nguy hiểm như chiến tranh, xung đột,… đe dọa.
Các giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa và phát huy(18). Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống trong các gia đình, cộng đồng được quan tâm thực hiện, nhất là văn hóa lễ hội của đồng bào các dân tộc.
Lĩnh vực tôn giáo, hiện nay có 13 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân với 4.611 cơ sở thờ tự, 47.334 chức sắc, chức việc, 6.675.718 tín đồ(19). Nhìn chung, tình hình tôn giáo trong vùng ổn định. Đa số chức sắc, chức việc tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào được bảo đảm.
Tình hình an ninh chính trị cơ bản ổn định. Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương luôn quan tâm bảo đảm thực hiện các quyền chính trị của công dân theo quy định của pháp luật. Ý kiến phản hồi của người dân được các cấp chính quyền tiếp thu và giải quyết kịp thời, giúp người dân yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp.
Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc bảo đảm an ninh con người ở ĐBSCL vẫn còn một số hạn chế, khó khăn.
An ninh kinh tế: mức thu nhập bình quân đầu người của vùng tuy có tăng nhưng chỉ cao hơn so với khu vực trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, thấp so với đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ. Năm 2022, GRDP của ĐBSCL đạt 65,5 triệu đồng/người/năm, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng là 123,3 triệu đồng/người/năm, vùng Đông Nam Bộ là 157,0 triệu đồng/người/năm(20). Sự chệnh lệch này là thách thức không nhỏ trong bối cảnh từ năm 2019 đến nay kinh tế ĐBSCL có dấu hiệu tăng trưởng chậm. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đạt 7,14%, năm 2020 xuống còn 2,42% và năm 2021 là -0,43%(21). Sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng, chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất ở ĐBSCL trong năm 2020 là 7 lần(22) và năm 2022 là 6,3 lần(23). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,76%, cao hơn so với mức trung bình cả nước là 0,42%(24).
An ninh lương thực: ĐBSCL là vựa lúa và lương thực của cả nước, tuy nhiên, do ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, ĐBSCL hiện phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Theo dự báo của tổ chức Oxfam, đến năm 2030, nước biển dâng có thể khiến 45% diện tích đất của vùng bị nhiễm mặn hoàn toàn, cùng với đó là những dự báo như phần lớn diện tích của ĐBSCL bị ngập lụt hằng năm, lượng nước của vùng vào mùa khô bị cạn dần(25) gây ra các hiện tượng tiêu cực như hạn mặn, sạt lở,… tác động trực tiếp đến bảo đảm an ninh lương thực của vùng trong thời gian tới.
An ninh y tế: mặc dù số lượng bác sĩ và giường bệnh tăng qua các năm nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Năm 2022, tỷ lệ bác sĩ và tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân thấp hơn so với tỷ lệ của toàn quốc(26). Cả vùng chỉ có 01 bệnh viện đa khoa tuyến cuối, không có bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối. Khoảng cách trung bình từ bệnh viện đa khoa các tỉnh đến bệnh viện đa khoa tuyến trung ương trong vùng là 95 km. Điều này làm cho công tác cứu chữa những bệnh nhân nặng, nguy cấp bị hạn chế. Đây là một thách thức đòi hỏi cần có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ tình trạng thiếu hụt trong lĩnh vực y tế, góp phần bảo đảm an ninh y tế của vùng.
An ninh môi trường: vấn đề ô nhiễm môi trường trên địa bàn một số tỉnh là nghiêm trọng, ô nhiễm tại các sông tiếp tục gia tăng. Nguồn ô nhiễm đến từ chất thải trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản, các khu, cụm công nghiệp và sinh hoạt của người dân. Mỗi năm có khoảng 1.790 tấn hoạt chất thuốc diệt ốc sên, 210 tấn hoạt chất thuốc diệt cỏ, 1.224 tấn hoạt chất thuốc trừ sâu và 4.245 tấn hoạt chất thuốc diệt nấm được sử dụng dư thừa trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ở An Giang và Kiên Giang, hai tỉnh sản xuất gạo lớn nhất của ĐBSCL, nông dân trồng lúa sử dụng phân bón nhiều hơn 20 - 30% so với mức khuyến cáo(27). Cùng với đó, lượng chất thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và sinh hoạt chưa qua xử lý cũng gây ra những vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống của người dân.
An ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị: vấn đề dân tộc, tôn giáo trong vùng luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ”, là những nguy cơ đe dọa đến việc bảo đảm an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và ổn định trật tự chính trị của vùng.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh con người ở đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và người dân trong vùng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc bảo đảm an ninh con người
Việc nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cũng như người dân trong vùng là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Trước hết, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng; thường xuyên lồng ghép nội dung bảo đảm an ninh con người trong các chương trình, kế hoạch của địa phương. Nội dung tuyên truyền, giáo dục tập trung vào vị trí, vai trò, tầm quan trọng và các lĩnh vực, các biểu hiện cụ thể của công tác bảo đảm an ninh con người để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân
Các địa phương cần có chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa, từ đó giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động.
Xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo, khuyến khích người lao động vừa học, vừa làm; mở rộng giáo dục nghề nghiệp, dạy nghề bằng nhiều hình thức thích hợp, nhất là dạy nghề chất lượng cao; có chính sách đào tạo nghề cho lao động chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực một cách hiệu quả, đón đầu xu hướng dịch chuyển sản xuất.
Khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các đối tượng lao động, ưu tiên các đối tượng là đồng bào dân tộc. Chính thức hóa khu vực việc làm phi chính thức và đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực việc làm; tăng cường quản lý lao động; hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế.
Thứ ba, bảo đảm an ninh lương thực trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Để bảo đảm an ninh lương thực, các cơ quan khoa học của vùng và các địa phương trong vùng cần tiếp tục nghiên cứu lai tạo giống lúa mới thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu, trong đó ưu tiên lai tạo các giống lúa thích nghi với điều kiện lũ lụt, hạn, mặn, phèn và sâu bệnh.
Đối với những khu vực bị ảnh hưởng nặng do hạn mặn, thiếu nước ngọt, cần khuyến khích, tạo điều kiện và có chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi mô hình trồng lúa sang trồng các loại hoa màu hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản để bảo đảm nguồn cung thực phẩm cho vùng.
Thứ tư, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân
Tăng cường đào tạo và có cơ chế thu hút đội ngũ cán bộ y tế, nhất là đội ngũ bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, khắc phục tình trạng thiếu hụt đội ngũ bác sĩ như hiện nay. Nghiên cứu mở rộng các hình thức đào tạo hệ cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ và đào tạo liên tục đội ngũ cán bộ y tế với quy mô hợp lý.
Quy hoạch để bảo đảm người dân được tiếp cận với các dịch vụ cấp cứu ở giai đoạn trước khi đến bệnh viện. Ưu tiên đầu tư cho các trạm y tế xã, phường có đủ năng lực đảm nhận vai trò là cơ sở chăm sóc ban đầu. Khuyến khích sự phát triển của y tế tư nhân. Thực hiện mô hình trung tâm y tế đa chức năng theo Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết 20- NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Bảo đảm mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản có chất lượng, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe người dân trong vùng.
Thứ năm, tăng cường khả năng phòng, chống những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường
Các tỉnh, thành phố trong vùng cần chủ động hơn nữa trong việc ban hành văn bản có nội dung tích hợp bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và thiên tai; sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước gắn với phát triển bền vững, bảo đảm môi trường sống của người dân.
Đa dạng hóa nguồn lực để phòng, chống tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trong đó, chú trọng thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai. Trang bị những kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu cho người dân, cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu chi tiết cho từng địa phương để từ đó có biện pháp phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Đồng thời, nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, giải quyết những nguy cơ đe dọa đến việc bảo đảm an ninh cá nhân, cộng đồng và an ninh chính trị
Chủ động nắm chắc tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; phát hiện, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh từ cơ sở, không để xảy ra điểm nóng, phức tạp.
Tuyên truyền sâu rộng về lịch sử vùng đất Nam Bộ; khơi dậy niềm tự hào về lịch sử, văn hóa, truyền thống anh hùng cách mạng, ý chí, khát vọng vươn lên, tinh thần đoàn kết và sự đồng thuận của người dân trong vùng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại các địa phương nhằm củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện tốt chính sách đối với người có uy tín, chức sắc, chức việc, cán bộ chủ chốt trong vùng đồng bào dân tộc; thông qua họ tuyên truyền, vận động đồng bào tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội.
_________________
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.135.
(2), (3), (4), (5), (6), ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.116, 117, 147, 156, 202.
(7), (10), (13), (14), (15), (17), (22) Ban Kinh tế Trung ương: Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20-01-2003 của Bộ Chính trị khóa IXvề phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011-2020, tr.16, 32, 18, 34, 37-38, 52, 16.
(8), (9), (16), (20), (23), (24) Xem: Niêm giám thống kê năm 2022, https://www.gso.gov.vn, ngày 19-8-2023, tr.261, 1.304, 1.308, 260-261, 1.015, 197-198.
(11) Tỷ lệ thất nghiệp năm 2019, 2020, 2021 lần lượt là 2,9%, 2,82% và 4,05% (xem: Niêm giám thống kê năm 2022, https://www.gso.gov.vn, ngày 19-8-2023, tr.198).
(12) Tổng cục Thống kê: Đồng bằng sông Cửu Long - Phát huy lợi thế vựa lúa số một cả nước, https://www.gso.gov.vn.
(18) Toàn vùng có 9 di tích quốc gia đặc biệt, 204 di tích quốc gia, 618 di tích cấp tỉnh/thành phố và 51 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
(19) Xem: Ban Tôn giáo Chính phủ: Báo cáo số liệu phục vụ Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25 về công tác tôn giáo, Hà Nội, 2017.
(21) VCCI: Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Đại học Cần Thơ, 2022, tr.28.
(25) HQ: Những nguy cơ đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt do biến đổi khí hậu, https://dangcongsan.vn, ngày 01-10-2021.
(26) Số bác sĩ/ 1 vạn dân của vùng là 7,65, cả nước là 10; số giường bệnh/1 vạn dân của vùng là 29,7, cả nước là 31,7.
(27) Mai Chi:Đồng bằng sông Cửu Long: Báo động nước thải nông nghiệp,https://baotainguyenmoitruong.vn,ngày 27-8-2019.