TS ĐỖ THỊ THƠM
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(LLCT) - Từ góc độ nhân quyền, bài viết tập trung phân tích cơ sở pháp lý về bảo đảm quyền an sinh xã hội trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, về cơ chế bảo đảm quyền an sinh xã hội. Từ thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid -19 trong các khu công nghiệp, bài viết khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động trong thời gian tới.
Công đoàn các Khu Công nghiệp và Chế xuất Hà Nội tổ chức tặng quà, trao trợ cấp cho đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh khó khăn tại Khu Công nghiệp Phú Nghĩa - Ảnh: laodongthudo.vn
1. Cơ sở pháp lý về bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 trong các khu công nghiệp
Quyền an sinh xã hội trong pháp luật quốc tế
Thuật ngữ “An sinh xã hội” đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng, như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, 1966); và một số công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Theo Ủy ban giám sát ICESCR (2008), an sinh xã hội dưới hình thức phân phối lại đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo, ngăn chặn sự loại trừ và đẩy mạnh sự hòa nhập của nhóm dễ bị tổn thương. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quan niệm: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời bảo đảm các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con(1).
Quyền an sinh xã hội được ghi nhận tại Điều 25 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người: “Mọi người đều có quyền có một mức sống thích đáng, bảo đảm cho sức khỏe và sự yên vui của bản thân và gia đình, bao gồm có đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở và được chăm sóc y tế cũng như các dịch vụ xã hội cần thiết và quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, ốm đau, tai nạn hoặc góa bụa hoặc gặp những thiếu thốn đời sống khác trong những hoàn cảnh vượt quá khả năng đối phó của họ”.
Như vậy, việc áp dụng các biện pháp trong bảo đảm quyền ASXH gắn với tôn trọng phẩm giá và sự phát triển tự do cá nhân. Điều này có hàm nghĩa rằng, không thể bảo đảm quyền này theo cách thức khước từ phẩm giá và các quyền tự do cơ bản khác của nhóm người gặp rủi ro. Quyền an sinh xã hội tiếp tục được khẳng định trong ICESCR, 1966 (Điều 9); Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (Điều 11); và trong Khuyến nghị về Sàn an sinh xã hội (số 202) của ILO năm 2012(2).
Cấu trúc của quyền an sinh xã hội. Dưới hình thức quy phạm, quyền ASXH có một cấu trúc chặt chẽ để phân biệt với các quyền khác trong ICESCR (1966). Theo giải thích của Ủy ban Giám sát công ước này (năm 2008): Quyền được hưởng ASXH bao gồm quyền được tiếp cận, duy trì những hỗ trợ bằng tiền hoặc bằng hiện vật, mà không có sự phân biệt đối xử để bảo vệ con người trong các hoàn cảnh: (i) thiếu thu nhập từ việc làm do bệnh tật, khuyết tật, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp và các rủi ro khác; (ii) không có khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục; (iii) không có khả năng hỗ trợ gia đình(3). Như vậy, quyền ASXH là sự bù đắp thiếu hụt về thu nhập và những điều kiện sinh sống thiết yếu cho cá nhân, hộ gia đình trong những trường hợp bị rủi ro về khả năng lao động và việc làm; cũng như bảo đảm những điều kiện sinh sống tối thiểu cho những người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi và những người bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, thiên tai...
Do đó, quyền ASXH được hiểu là một quyền phổ biến của con người được công nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia nhằm duy trì sự hỗ trợ đối với những người cần được bảo vệ trong những hoàn cảnh bất lợi vượt khỏi tầm kiểm soát của họ, như thất nghiệp, bệnh tật, khuyết tật, tai nạn lao động, tuổi già, hoặc không có khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ gia đình.
Vì vậy, việc bảo đảm quyền ASXH nói chung và của người lao động nói riêng là nghĩa vụ trước tiên của nhà nước và một số chủ thể khác trong việc xây dựng và thực thi những biện pháp về pháp luật, chính sách và các biện pháp khác nhằm giúp người dân tiếp cận được hệ thống ASXH phù hợp với các chuẩn mực chung đã được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người.
(1) Về chủ thể nghĩa vụ: Quyền an sinh xã hội của người lao động có quan hệ trực tiếp đến nghĩa vụ của một số chủ thể sau:
Chủ thể nhà nước: Về bản chất, bảo đảm quyền ASXH là nghĩa vụ trước tiên của nhà nước, bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan công quyền. Nghĩa vụ này đã được công nhận trong trong ICESCR (1966), bao gồm: (i) Nghĩa vụ thực hiện từng bước và nghĩa vụ thực hiện ngay tức thì trong phạm vi nguồn lực sẵn có (Điều 2.1). (ii) Nghĩa vụ bảo đảm mà không có sự phân biệt đối xử nào (Điều 2.2). (iii) Nghĩa vụ về biện pháp (Điều 2.1): Các biện pháp thích hợp, đặc biệt về lập pháp và hướng đến mục tiêu “ngày càng đầy đủ” quyền ASXH phù hợp với các chuẩn mực chung.
Đối với quyền ASXH của người lao động, Ủy ban giám sát ICESCR đã khuyến nghị, các quốc gia phải thực thi các biện pháp thích hợp về pháp luật, chính sách trong phạm vi nguồn lực sẵn có để bảo đảm rằng hệ thống ASXH bảo vệ được người lao động trong việc hưởng thụ đầy đủ quyền ASXH. Hệ thống an sinh xã hội này phải cung cấp được mức cơ bản tối thiểu cho các cá nhân, hộ gia đình, giúp họ nhận được sự chăm sóc sức khỏe, nhà ở cơ bản, nước sạch và vệ sinh, thực phẩm và các hình thức giáo dục cơ bản.
Để bảo đảm quyền ASXH, đòi hỏi phải có một hệ thống ASXH (tính sẵn có của hệ thống an sinh xã hội). Hỗ trợ bằng tiền hay bằng hiện vật phải đầy đủ về số lượng và thời gian nhằm giúp bảo vệ gia đình và tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe (tính đầy đủ). Hệ thống an sinh xã hội của quốc gia cần phải bảo đảm về khả năng tiếp cận được của đối tượng thụ hưởng (tính có thể tiếp cận được).
Chủ thể phi nhà nước - chủ thể sử dụng lao động. Theo hướng dẫn của Liên hợp quốc về doanh nghiệp và quyền con người (năm 2011), các doanh nghiệp cần tôn trọng quyền con người như đã được ghi nhận trong các điều ước nhân quyền quốc tế, trong Tuyên bố của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động. Điều này có nghĩa là tránh những vi phạm về quyền con người và tránh những tác động xấu đến quyền con người mà họ có liên quan, bao gồm quyền về ASXH của người lao động. Trách nhiệm về quyền con người của doanh nghiệp được áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp, bất kể quy mô, ngành nghề, bối cảnh hoạt động, quyền sở hữu và cấu trúc của chúng(4). Một số chủ thể khác, như tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, đây là những tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động.
(2) Chủ thể thụ hưởng quyền - người lao động
Quyền ASXH của người lao động thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và là quyền không thể chia cắt của con người. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa xác lập nghĩa vụ cốt lõi tối thiểu, và không để bị tụt hậu hơn trong việc bảo đảm. Theo ICESCR (1966), nghĩa vụ có hiệu lực tức thì là đáp ứng mức tối thiểu thiết yếu của mỗi quyền. Chúng được coi là nghĩa vụ cốt lõi của nhà nước.
Quyền an sinh xã hội trong pháp luật Việt Nam
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến đầu năm 2022, Việt Nam có 395 khu công nghiệp tại 61 tỉnh, thành phố với diện tích quy hoạch 123.000 ha, và gần 7 triệu lao động. Một số tỉnh, thành có số lượng lao động lớn, như thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 500 nghìn công nhân viên “chính quy” làm việc tại các nhà máy và doanh nghiệp. Trong đó, khoảng 300 nghìn công nhân viên làm việc tại 18 Khu chế xuất, Khu công nghiệp và Khu công nghệ cao.
Bảo đảm ASXH ở Việt Nam là nội dung cơ bản của nguyên tắc phân phối công bằng. Hệ thống này được cấu trúc bởi năm trụ cột, đó là: (i) Việc làm, thu nhập, giảm nghèo; (ii) Bảo hiểm xã hội; (iii) Bảo đảm mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản, như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin; (iv) Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; (v) Hệ thống cung cấp dịch vụ công về ASXH thông qua công tác xã hội chuyên nghiệp.
Trong Hiến pháp năm 2013, quyền ASXH của người dân, trong đó có người lao động được công nhận rõ ràng, như: Công dân có quyền được bảo đảm ASXH (Điều 34). Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác (Điều 58, khoản 1, 2).
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 ghi nhận hai chế độ bảo hiểm xã hội: (i) Bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. (ii) Bảo hiểm xã hội tự nguyện (BHTN) có các chế độ: hưu trí; tử tuất (Điều 4). Các hình thức bảo hiểm trong luật này là phù hợp với tiêu chuẩn của ILO về sàn an sinh xã hội (2012).
Quyền của người lao động về bảo hiểm xã hội được công nhận, như: được tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của luật này; nhận lư¬ơng h¬ưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời; h¬ưởng bảo hiểm y tế (Điều 18, khoản 1, 2, 3, 4). Các thủ tục công bằng để bảo vệ quyền lợi bảo hiểm cũng được thiết lập, như: định kỳ 06 tháng được người sử dụng lao động cung cấp thông tin về đóng bảo hiểm xã hội; định kỳ hằng năm được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận về việc đóng bảo hiểm xã hội; được yêu cầu ngư¬ời sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội cung cấp thông tin về việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện đã góp phần hỗ trợ người lao động bị thất nghiệp có thu nhập thay thế khi bị mất việc, được đào tạo và hỗ trợ tìm việc làm thay thế.
Trong Luật Việc làm năm 2013, các chính sách được xây dựng đều có sự gắn kết vấn đề tạo việc làm với vấn đề bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đối với người lao động: Có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động và BHTN (Điều 3, khoản 5).
Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp được hưởng bao gồm: (1) Trợ cấp thất nghiệp; (2) Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; (3) Hỗ trợ học nghề; (4) Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động (Điều 42).
Nghĩa vụ tham gia BHTN của người sử dụng lao động được quy định: (1) Người sử dụng lao động phải tham gia BHTN cho người lao động tại tổ chức bảo hiểm xã hội trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực; (2) Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hưởng chế độ bảo hiểm y tế (BHYT) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế (Điều 51).
Luật quy định về thời gian, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động: (1) Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập; (2) Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp (Điều 46).
Cùng với những quyền lợi từ bảo hiểm thất nghiệp - Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). BHYT tuân thủ các nguyên tắc: (1) Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT. (2) Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính (sau đây gọi chung là mức lương tối thiểu).
Về quyền tham gia BHYT của người lao động: Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật (Điều 12). Về phương thức đóng: Hàng tháng, người sử dụng lao động đóng BHYT cho người lao động và trích tiền đóng bảo hiểm y tế từ tiền lương, tiền công của người lao động để nộp cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm y tế (Điều 15).
Về quyền của tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động: (1) Yêu cầu tổ chức bảo hiểm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và người sử dụng lao động cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin liên quan đến chế độ BHYT của người lao động. (2) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật về BHYT làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động (Điều 44).
2. Kết quả về bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động trong các khu công nghiệp bị ảnh hưởng của đại dịch Covid -19
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến thành tựu nhiều năm qua trên tiến trình đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và các thành quả về giảm nghèo. Bên cạnh đó, đại dịch cũng làm bộc lộ những khoảng trống về ASXH ở tất cả các quốc gia, tác động xấu đến sự thụ hưởng các quyền con người, kể cả tại các quốc gia phát triển.
Tại Việt Nam, đại dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng đối với kinh tế, đặc biệt là các hoạt động sản xuất, kinh doanh với các đối tác thương mại lớn, gây ra nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp và người lao động. Trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội do Covid-19, nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp phải tạm ngừng hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất, thậm chí giải thể.
Mặt khác, việc cắt giảm đơn hàng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Hàng trăm nghìn người lao động phải nghỉ việc, giãn việc, làm việc luân phiên do doanh nghiệp ngừng hoạt động, bị nhiễm Covid-19 nên phải cách ly và điều trị, sống trong khu bị phong tỏa.
Theo Báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong năm 2022, toàn quốc có 122.100 doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động, nhiều người mất việc làm. Một số doanh nghiệp chế biến gỗ, dệt may, da giầy bị cắt giảm đơn hàng dẫn đến nhiều người lao động bị giảm giờ làm, chấm dứt hợp đồng lao động, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống. Số lao động trong các khu công nghiệp bị ảnh hưởng tới việc làm là 172.088 lao động, chiếm 36,44% tổng số lao động bị ảnh hưởng. Số lao động bị ảnh hưởng phần lớn ở các doanh nghiệp FDI (chiếm 75% tổng số lao động bị ảnh hưởng)(5).
Trong năm 2021, 2022, khi đại dịch Covid-19 gây ra rất nhiều hệ lụy đối với kinh tế - xã hội thì quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp và các trợ giúp xã hội khác đã trở thành chiếc phao cứu sinh của nhiều người lao động trong các khu công nghiệp, giúp họ vượt qua khó khăn, thách thức của đại dịch.
Hỗ trợ quyền lao động, việc làm nhằm ổn định đời sống
Để khắc phục khó khăn, thách thức từ đại dịch, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP (2020) và Nghị quyết số 154/NQ-CP (2020) về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do Covid-19. Nghị quyết đã quy định rõ về tạm dừng đóng một số quỹ đối với người sử dụng lao động và người lao động.
Tháng 4 - 2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Nghị quyết đưa ra 12 chính sách hỗ trợ, như: chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động; chính sách hỗ trợ người lao động, tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP và Nghị quyết số 116/NQ-CP, số tiền hỗ trợ đã lên đến 74.102 tỷ đồng, hỗ trợ 43,77 triệu lượt người dân, người lao động và gần 742 nghìn doanh nghiệp, người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; qua đó, góp phần thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ, làm tốt các chính sách “an sinh để an dân”(6).
Về hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nghị quyết số 116/NQ-CP (2021) của Chính phủ nêu rõ: việc hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ BHTN bảo đảm nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ và công bằng đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia BHTN. Nghị quyết hướng đến mục tiêu khoảng hơn 25 triệu người lao động và khoảng 368.000 doanh nghiệp sử dụng lao động được hỗ trợ từ quỹ BHTN. Việc thực hiện Nghị quyết số 116/NQ-CP đã đạt được những kết quả quan trọng, khoảng 346.664 lượt người sử dụng lao động và gần 12,98 triệu lượt người lao động được hỗ trợ với tổng kinh phí trên 38.430 tỷ đồng từ nguồn Quỹ BHTN(7).
Hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe, an toàn tính mạng
Từ năm 2020, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều đợt dịch Covid-19. Trong đó, đợt dịch thứ tư bùng phát từ ngày 27-4-2021 là nghiêm trọng nhất, với số ca nhiễm tăng nhanh trong cộng đồng chỉ trong thời gian ngắn. Đợt dịch này đã khiến nhiều nhà máy ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại nhiều tỉnh, thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai... phải đóng cửa tạm thời do nằm trong vùng cách ly y tế, giãn cách xã hội để phòng, chống dịch. Kéo theo đó là nhiều lao động phải thực hiện cách ly y tế, bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, việc làm và thu nhập.
Để vượt qua những tác động nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, đời sống và kinh tế - xã hội, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp tổng thể để ứng phó kịp thời, hiệu quả với dịch bệnh; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nhằm bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, đời sống của người dân, người lao động. Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn các cấp… đã tập trung huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho công tác phòng, chống dịch. Ngành Y tế, Quân đội, Công an đã chủ động vào cuộc, tích cực giám sát, cách ly, xét nghiệm, điều trị hiệu quả cho nhiều bệnh nhân Covid.
Hỗ trợ về chỗ ở
Nhằm hỗ trợ người lao động vượt qua khó khăn của đại dịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28-3-2022; chính sách hỗ trợ về nhà ở cũng được quy định tại Nghị quyết số 11/NQ-CP (2022) về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Hai nhóm đối tượng được nhận hỗ trợ là người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp và người lao động quay trở lại thị trường lao động, bao gồm: (i) người ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ 4 tháng; (ii) người có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 01 tháng trở lên được giao kết và bắt đầu thực hiện; (iii) người đang tham gia BHXH bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia BHXH bắt buộc) tại tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà. (iv) người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện trên thì được Nhà nước hỗ trợ 500.000 đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ tối đa 3 tháng. Phương thức chi trả hằng tháng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam về cơ bản đã hoàn thành xong việc xác định số giảm đóng cho 363.600 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng 9,68 triệu lao động với số tiền tạm tính được điều chỉnh giảm đóng (từ tháng 10-2021 đến tháng 9-2022) khoảng 7.595 tỷ đồng. Đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho 12.868.602 lao động (gồm 11.778.559 lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 1.090.043 người đã dừng tham gia) với số tiền hỗ trợ 30.519,9 tỷ đồng, việc chi trả đa số thực hiện qua tài khoản cá nhân(8).
Những kết quả tích cực về bảo đảm quyền ASXH đối với người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, bao gồm người lao động tại các khu công nghiệp là xuất phát từ các quyết sách kịp thời, sáng tạo của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt, quyết tâm cao của Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp theo tinh thần phát huy truyền thống đoàn kết, đồng lòng, chung sức, huy động mọi nguồn lực để đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe, chăm lo, ổn định đời sống của người lao động.
Tuy nhiên, qua triển khai các chính sách ASXH đối với người lao động cũng đã bộc lộ những hạn chế như: về mức hưởng và thời gian thụ hưởng các gói hỗ trợ ASXH thấp và không đáp ứng mức sống tối thiểu.
Pháp luật, chính sách về ASXH còn nhiều bất cập, thiếu sự liên kết giữa các chính sách; do đó việc áp dụng, cũng như việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh đại dịch, dẫn đến tình trạng người lao động ở nhiều khu công nghiệp không nắm bắt được quyền lợi của mình để tích cực tham gia; mức độ bao phủ còn thấp.
Nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực ASXH đối với người lao động còn thiếu kỹ năng, kinh nghiệm, đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số vào quản lý, điều hành an sinh xã hội còn hạn chế. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các cấp về ASXH chưa theo kịp sự phát triển của đời sống xã hội…
4. Phương hướng bảo đảm quyền ASXH của người lao động trong các khu công nghiệp ở Việt Nam
Từ kết quả đạt được, những kinh nghiệm được đúc rút, đề xuất một số phương hướng sau:
Thứ nhất, bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách ASXH, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, người lao động, doanh nghiệp trong việc bảo đảm ASXH theo tinh thần xã hội hóa.
Để duy trì và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ, cần thiết lập cơ chế pháp lý hiệu quả cho việc thực thi và giám sát việc bảo đảm các tiêu chuẩn về quyền an sinh xã hội đối với người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, thiên tai, hoặc các cú sốc có thể xảy ra trên diện rộng đối với họ.
Bảo đảm thu nhập tối thiểu, giảm nghèo bền vững, gia tăng cơ hội có việc làm cho người lao động. Mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách BHXH, BHTN, BHYT để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất bởi các rủi ro ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, tuổi già. Hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân, người lao động khi gặp các rủi ro vượt quá khả năng kiểm soát của họ (thiên tai, dịch bệnh, xung đột, đói nghèo...).
Nhà nước cần thiết lập cơ chế, biện pháp thích hợp để giám sát hiệu quả việc bảo đảm quyền ASXH. Trong trường hợp việc bảo đảm quyền ASXH của người lao động bị ảnh hưởng bởi các cú sốc, dịch bệnh, thiên tai trong các khu công nghiệp được giao cho chính quyền địa phương, hay ban quản lý khu công nghiệp, thì Nhà nước vẫn phải đảm bảo rằng các chủ thể này có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của về quyền kinh tế, xã hội.
Thứ hai, xây dựng hệ thống an sinh xã hội bao trùm, đa dạng, đa tầng, thống nhất.
Hệ thống ASXH thừa nhận nguyên tắc bảo đảm những tiêu chuẩn cốt lõi, tối thiểu kết hợp với gia tăng cơ hội lựa chọn cho người lao động. Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp thực hiện chính sách ASXH cho người lao động; khuyến khích người lao động tự nguyện tham gia các chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện(9). Xây dựng các tiêu chí rõ ràng, minh bạch về bảo đảm quyền ASXH, bao gồm các tiêu chuẩn tối thiểu, cốt lõi và các tiêu chuẩn về cơ hội lựa chọn cho người lao động. Các tiêu chí cần bao trùm các thành tố khác nhau của quyền an sinh xã hội, như tính sẵn có, đầy đủ; bảo hiểm rủi ro, các cách thức khắc phục rủi ro, khả năng tiếp cận và nguồn lực.
Cần có giải pháp nghiêm minh như áp dụng chế tài hình sự nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp cố tình nợ đọng bảo hiểm xã hội kéo dài để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động. Thực hiện tốt công tác bảo trợ xã hội. Việc hoàn thiện Luật Bảo hiểm xã hội cần bổ sung các chế tài nhằm hạn chế hưởng bảo hiểm xã hội một lần, tăng tính hấp dẫn, thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu như: Giảm thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm; bổ sung các quyền lợi, nhất là các quyền lợi ngắn hạn để gia tăng sự hấp dẫn, tạo động lực cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội; tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách BHXH cũng như tính linh hoạt của các chính sách.
Thứ ba, bảo đảm quyền ASXH gắn với giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống cho người lao động
Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08 - 01 - 2022 của Chính phủ “về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022” nhấn mạnh: Bảo đảm an sinh xã hội, an dân, thực hiện tốt chính sách xã hội đối với người có công, khôi phục và ổn định thị trường lao động; thực hiện tốt các chính sách nâng cao mức sống cho người lao động và các nhóm đối tượng bị tổn thương bởi Covid-19.
Tiếp tục làm tốt công tác bảo trợ xã hội, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp, nhà ở cho thuê. Nhà nước cần có chính sách tín dụng để hỗ trợ người lao động vay với lãi suất thấp khi gặp khó khăn để ổn định cuộc sống. Đồng thời, tiếp tục xây dựng và thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững, trong đó chú ý nhóm 40% dân số nghèo nhất, chú trọng các chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm bền vững(10).
Cùng với đó, cần chủ động đào tạo nhân lực ứng phó với các tình huống khẩn cấp quốc gia như dịch bênh, thiên tai…
Thứ tư, áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động
Vận dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong bảo đảm quyền ASXH của người lao động, cần thực hiện các bước phân tích: (1) Xác định rõ chủ thể hưởng quyền con người và những nội dung mang tính quy phạm của quyền ASXH; (2) Xem xét, so sánh hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền ASXH; (3) Đánh giá những thiếu hụt năng lực của chủ thể có quyền khiến họ gặp thách thức trong việc tiếp cận hệ thống ASXH; và những thiếu hụt năng lực của bên có nghĩa vụ bảo đảm quyền ASXH; (4) Xác định được giải pháp khả thi để nâng cao năng lực của chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền ASXH. Điểm đặc biệt của phương pháp tiếp cận dựa trên quyền là coi trọng nhiệm vụ tổ chức thực hiện, nhất là phân tích, xử lý các bất bình đẳng đang làm cản trở tiến độ bảo đảm quyền ASXH.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo đảm quyền an sinh xã hội của người lao động trong các khu công nghiệp ở Việt Nam
Hợp tác quốc tế vừa là yêu cầu tất yếu, vừa là nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm quyền ASXH đối với người lao động, nhất là người lao động trong các khu công nghiệp có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo ICESCR, các quốc gia thành viên cam kết sẽ thực hiện những biện pháp riêng và hợp tác quốc tế, đặc biệt là các biện pháp về kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tối đa các nguồn lực, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền đã được ghi nhận trong Công ước bằng các biện pháp thích hợp (Điều 2, khoản 1). Theo Điều khoản này, các quốc gia công nhận ý nghĩa của việc hợp tác quốc tế, và có trách nhiệm tuân thủ nghĩa vụ quốc tế trong bảo đảm quyền an sinh xã hội. Chủ động tiếp nhận có hiệu quả sự hỗ trợ quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính nhằm triển khai hiệu quả các chương trình ASXH bền vững, thích ứng an toàn, linh hoạt.
Bảo đảm quyền ASXH của người lao động trong các khu công nghiệp ở Việt Nam có ý quan trọng đối với bảo vệ phẩm giá người lao động, nâng cao hiệu quả ứng phó với các cú sốc, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời gian ứng phó với đại dịch, với nhiều quyết sách kịp thời của Đảng, Nhà nước cùng với sự vào cuộc của hệ thống chính trị, quyền
ASXH của người lao động bị ảnh hưởng đã được bảo đảm và đạt được những kết quả tích cực.
Các chính sách ASXH nhằm bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương nói chung và người lao động trong các khu công nghiệp nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm an ninh con người, duy trì niềm tin của xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thúc đẩy xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, không để ai bị bỏ lại phía sau.
_________________
Ngày nhận bài: 9-9-2023; Ngày bình duyệt: 12 - 9-2023; Ngày duyệt đăng: 15-9-2023.
(1) https://www.ilo.org/hanoi/Whatwedo/Projects/WCMS_848330/lang--vi/index.htm
(2) Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Khuyến nghị Xây dựng Sàn An sinh Xã hội cấp quốc gia, thông qua tại kỳ họp lần thứ 101, Hội nghị Lao động quốc tế tại Geneva, ngày 14-6-2012.
(3) Đại học quốc gia Hà Nội: Quyền con người - Tập hợp những Bình luận / Khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.210, 211.
(4) https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/vn/UNGPs_Nguyen-tac-huong-dan-Kinh-doanh-va-Quyen-Con-nguoi_VIE_2021-01-12.pdf.
(5) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và Công đoàn: Nghiên cứu tình hình việc làm, thu nhập, đời sống, tâm tư, nguyện vọng của công nhân, viên chức, lao động năm 2022, Hà Nội, 2022.
(6) https://dangcongsan.vn/mung-dat-nuoc-doi-moi-mung-dang-quang-vinh-mung-xuan-nham-dan-2022/dang-dan-toc-va-mua-xuan/dam-bao-an-sinh-xa-hoi-trong-dai-dich-covid-19-603095.html.
(7) https://baochinhphu.vn/luoi-an-sinh-mo-rong-cho-nguoi-lao-dong-102220429192557624.htm.
(8)http://laodongxahoi.net/bao-dam-an-sinh-xa-hoi-trong-thoi-diem-dai-dich-covid-19-khang-dinh-vai-tro-cua-dang1325142.html.
(9) Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3 - 6 - 2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(10) Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08 - 01 - 2022 của Chính phủ: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022