Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững vùng duyên hải miền Trung Việt Nam

19/09/2023 11:02

ThS NGUYỄN THANH THẢO
Cục Địa chất Việt Nam

(LLCT) - Biến đổi khí hậu đã và đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của vùng duyên hải miền Trung. Để vượt qua những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra, hướng tới một tương lai xanh và bền vững, việc xây dựng, ban hành và triển khai hiệu quả các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu là vô cùng cấp bách và là chiến lược lâu dài.

Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới  phát triển bền vững vùng duyên hải miền Trung  Việt Nam

Đường Nguyễn Công Trứ, thành phố Huế bị ngập sâu trong đợt lũ lụt miền Trung năm 2020 - Ảnh: IT

1. Tác động của biến đổi khí hậu đến vùng duyên hải miền Trung

Vùng duyên hải miền Trung (DHMT) của Việt Nam gồm vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, có 14 tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 95,860 km2 (chiếm 28,9% diện tích cả nước); có bờ biển dài gần 2.000 km, chiếm khoảng 60% chiều dài bờ biển cả nước (3.260 km). Địa hình dốc, hẹp, địa thế trải dài, phía Tây là dãy Trường Sơn, hệ thống sông, ngòi ngắn và dốc, thường xuyên bị thiên tai, bão, lũ.

Dân số của vùng năm 2020 khoảng 20,343 triệu người (chiếm 20,8% dân số cả nước) với khoảng 50 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Mật độ dân số là 212 người/km2 (cả nước là 295 người/km2)(1). Với lợi thế về địa lý, tài nguyên thiên nhiên và nhân lực, vùng DHMT đã có đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của cả nước.

Hiện trạng tác động của BĐKH tại vùng DHMT

Vùng DHMT là một trong những vùng dễ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH. Mỗi năm, khu vực này phải hứng chịu khoảng 43,6% tổng số trận bão ở Việt Nam, trong đó có nhiều trận bão lớn và siêu bão(2). BĐKH khiến bão và áp thấp nhiệt đới gia tăng tần suất, cường độ, mức độ khắc nghiệt và khó dự báo, gia tăng nguy cơ lũ lụt. Riêng từ tháng 9 đến tháng 11 - 2020, vùng DHMT đã hứng chịu tới 9 trận bão và 2 áp thấp nhiệt đới trong tổng số 16 cơn bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động trên biển Đông, trong đó, trận bão số 9 đạt cấp siêu bão, là trận bão mạnh nhất trong 20 năm, với gió cấp 14, giật trên cấp 17, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản(3).

Cùng với bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, lũ quét cũng là một trong những thiên tai thường xuyên xảy ra ở các tỉnh, thành phố DHMT. Năm 2016, đợt mưa lũ từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 10 đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho các tỉnh DHMT. Thống kê trên địa bàn Nghệ An, Quảng Bình và Quảng Ngãi, đợt mưa lũ này đã khiến cho 35 người chết hoặc mất tích, 34 người bị thương, 13 ngôi nhà sập, 8.225 hộ dân bị ngập, 24 hộ dân phải di dời, 2.231,07 ha lúa mùa và 7.706,32 ha rau màu bị thiệt hại, ảnh hưởng đến hơn 3.938,04 ha diện tích nuôi trồng thủy sản, trên 24 trang trại bị ảnh hưởng nặng, 322 gia súc và 22.224 gia cầm bị chết. Tổng thiệt hại ước tính tại 03 địa phương là hơn 1.400 tỷ đồng(4). Theo số liệu ước tính năm 2020 lũ lụt đã khiến 1.014 khu dân cư, 70 trường học, 13 cơ sở y tế, 32.558 ha đất nông nghiệp, 402 km chiều dài đường bộ, 29 km đường sắt, 35 cầu và 239 cơ sở kinh doanh của Quảng Bình bị bị chìm trong vùng ngập. Năm 2021, khoảng 7.000 người phải di rời do lũ lụt(5).

Vùng DHMT cũng thường xuyên phải đối mặt với nắng nóng, hạn hán và xâm nhập mặn. Tình trạng hạn hán và thiếu nước xảy ra thường xuyên trong mùa khô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống các địa phương. Do nắng nóng và lượng mưa thấp, dòng chảy tại các sông trong vùng bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 2019, mực nước sông trong khu vực DHMT giảm và thấp hơn so với nhiều năm trước, các sông có lượng dòng chảy giảm từ 16% đến 57% so với mức trung bình nhiều năm. Đặc biệt, ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và Ninh Thuận giảm tới 70% đến 90%(6). Do nước sông giảm thấp, tại dọc sông Thu Bồn nồng độ mặn lên đến 21‰, gấp 12-13 lần so với mức cho phép khiến nước mặn tràn vào đồng ruộng làm khô cháy cây trồng, đây được xem là đợt xâm nhập mặn nặng nề nhất tại khu vực đến thời điểm này.

Do nắng nóng và hạn hán, DHMT phải đối mặt với hiện tượng hoang mạc hóa, đặc biệt là tại tỉnh Ninh Thuận, với diện tích đất hoang mạc chiếm 12,21% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh(7).

Dưới tác động của BĐKT, vùng DHMT đang phải đối mặt với tình trạng xói lở bờ biển đáng lo ngại. Tổng chiều dài của các đoạn bờ biển bị xói lở từ tỉnh Quảng Nam đến Phú Yên là 492 km, tác động đến 65 khu vực và 105 đoạn bờ biển. Trong đó Quảng Nam xói lở dài gần 19 km, Quảng Ngãi trên 35 km, Bình Định gần 34 km, Phú Yên gần 21 km(8). Ở Nghệ An, có 45 xã ven biển thì 19 xã bị xói lở, tổng chiều dài xói lở 19 km. Đáng báo động, mỗi năm khu vực này ở Nghệ An mất gần 100 ha đất ven biển, tốc độ xói lở từ 150 đến 200m/năm, khiến một số đoạn bờ biển đã xói lở đến gần khu dân cư(9).

Tại Quảng Bình, khu vực bị sạt lở hàng trăm mét, hàng trăm hộ dân bị mất nhà phải di dời vào sâu trong đất liền(10). Hậu quả của xói lở bờ biển và mất đất gây thiệt hại nặng nề về sinh mạng, tài sản, cơ sở hạ tầng và đất đai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chung.

Kịch bản BĐKH vùng DHMT

Theo kịch bản BĐKH và nước biển dâng(11) được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2020, vùng DHMT sẽ đối diện với nhiều tác động tiêu cực từ BĐKH trong cả ngắn hạn và dài hạn. BĐKH sẽ tác động và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống, gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Cụ thể, BĐKH sẽ có những tác động sau:

(i) Thay đổi nhiệt độ theo mùa và theo năm: Dự báo về nhiệt độ, DHMT sẽ tăng nhiệt độ vào mùa Hè, giảm nhiệt độ vào mùa Đông, đồng thời nhiệt độ cực đại và số lượng các đợt nắng nóng có sự gia tăng có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong đó, nhiệt độ tăng nhanh hơn ở khu vực phía Bắc và chậm hơn ở khu vực phía Nam, và nhanh hơn ở các khu vực ven biển so với các khu vực nằm sâu trong lục địa (Bảng 1a).

(ii) Biến đổi về lượng mưa: BĐKH sẽ gây ra biến động trong lượng mưa ở DHMT, với sự tăng mạnh của lượng mưa vào mùa mưa và giảm lượng mưa vào mùa khô. Lượng mưa tại vùng DHMT theo dự báo sẽ tăng mạnh hơn so với trung bình cả nước, ước tính có thể tăng lên trên 20%.

Tuy nhiên, lượng mưa có sự khác biệt giữa các vùng và tỉnh, thành phố trong vùng, một số địa phương như Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi sẽ đối mặt với nguy cơ lũ lụt cao trong năm, trong khi các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên và Quảng Bình lại có khả năng phải đối mặt với nguy cơ hạn hán (Bảng 1b).

(iii) Tăng cường xoáy thuận nhiệt đới và tần suất bão: Hiện tượng xoáy thuận nhiệt đới và bão sẽ gia tăng cả về cường độ và tần suất, trở nên khó dự đoán hơn.

(iv) Nguy cơ ngập lụt do nước biển dâng: Mức nước biển dâng tăng nguy cơ ngập lụt cho khu vực.
Bảng 1: Mức biến đổi nhiệt độ trung bình và lượng mưa trung bình năm vùng duyên hải miền Trung theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5



a) Nhiệt độ                                                        b) Lượng mưa

Nguồn: Tổng hợp từ Kịch bản BĐKH Việt Nam (Giá trị trong ngoặc đơn là khoảng biến đổi quanh giá trị trung bình với cận dưới 10% và cận trên 90%)

Về mức nước biển dâng, dự báo vào năm 2050, trung bình mực nước biển dâng là 22 cm cho toàn dải ven biển Việt Nam (thấp nhất là 14 cm, cao nhất là 32 cm). Đến năm 2100, dự báo trung bình mực nước biển dâng là 53 cm (thấp nhất là 32 cm, cao nhất là 76 cm). Dự báo vùng DHMH sẽ có mực nước biển dâng cao hơn so với các vùng khác và có sự khác biệt rõ rệt theo vĩ độ, khu vực ven biển Nam Trung Bộ có mực nước biển dâng cao hơn đáng kể so với khu vực Bắc Trung Bộ.

Cũng theo kịch bản BĐKH, các tỉnh DHMT sẽ đối mặt với nguy cơ ngập lụt cao do nước biển dâng. Nước biển dâng cao có thể khiến vùng DHMT ngập đến 1,5% diện tích. Ngoài ra, thủy triều tại khu vực được dự báo cũng sẽ có sự biến động mạnh về biên độ và có sự khác nhau giữa các khu vực, trong đó ven biển Thừa Thiên Huế là khu vực có biên độ dao động thủy triều nhỏ nhất (từ 40 đến 50 cm).

Để thích ứng và giảm bớt tác động tiêu cực của BĐKH, việc xây dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả các chính sách liên quan đến BĐKH là đặc biệt cần thiết và quan trọng. Những chính sách này không chỉ giúp giảm bớt các rủi ro và tăng khả năng thích ứng của vùng trước BĐKH mà còn nhằm khai thác các cơ hội BĐKH đem lại để chuyển đổi sang một nền kinh tế cácbon thấp, thân thiện với môi trường, hiệu quả và bền vững.

2. Đánh giá tình hình xây dựng và triển khai các chính sách về biến đổi khí hậu hiện hành

Các chính sách hiện hành về biến đổi khí hậu tại cấp quốc gia

Nhận thức rõ những tác động nghiêm trọng của BĐKH đến sự phát triển bền vững của đất nước, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH, thúc đẩy phát triển nền kinh tế cácbon thấp, phát triển bền vững.

Đảng đã ban hành các văn kiện về các vấn đề liên quan trực tiếp đến BĐKH như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận số 56-KL/TW ngày 23-8-2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11-2-2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và nhiều quan điểm, chủ trương khác có liên quan.

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã đề ra những định hướng lớn để phát triển đất nước, ứng phó với BĐKH là một trong những nội dung quan trọng, bao gồm chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 03/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thể chế hóa các chủ trương của Đảng và các cam kết quốc tế, Quốc hội đã thông qua Luật Khí tượng thủy văn, trong đó đã dành một chương quy định về giám sát BĐKH; đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định tương đối đồng bộ và đầy đủ các giải pháp nhằm thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôdôn. Chính phủ đã ban hành 03 nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có 01 nghị định liên quan trực tiếp đến lĩnh vực biến đổi khí hậu(12). Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03-12-2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 theo Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26-7-2022 (trước đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05-12-2011).

Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017; Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20-7-2020), Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26) (Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25-7-2022), Đề án triển khai Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng(Quyết định số 1009/QĐ-TTg ngày 31-8-2023)...

Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các bộ, ngành liên quan, các địa phương, trong đó có các địa phương DHMT chủ trì xây dựng, ban hành và thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch, đề án, dự án và văn bản hướng dẫn thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật nêu trên(13).

Bên cạnh đó, cùng với cộng đồng quốc tế Việt Nam đã sớm tham gia và phê chuẩn, triển khai thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH, đặc biệt là cam kết tại COP26 về phấn đấu mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Đánh giá chung, việc ứng phó với BĐKH luôn được xem là một ưu tiên quan trọng tại Việt Nam. Việt Nam luôn coi ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, cộng đồng, doanh nghiệp và từng người dân, thể hiện trong việc thực hiện các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ tác động bởi BĐKH, sử dụng bền vững, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.

Các cấp, các ngành đã ban hành một hệ thống chính sách, pháp luật khá đồng bộ về ứng phó với BĐKH. Đây là những nỗ lực quan trọng của cả hệ thống chính trị cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế trong ứng phó với BĐKH.

Ứng phó với BĐKH ở nước ta đã đạt được một số thành công bước đầu, được quốc tế ghi nhận. Các chính sách ứng phó với BĐKH này đã giúp giảm thiểu tác động của BĐKH, tăng cường khả năng chống chịu của hệ sinh thái và cộng đồng dân cư, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan chức năng và thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan. Đồng thời, những biện pháp này cũng góp phần thúc đẩy phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và công bằng xã hội ở Việt Nam nói chung và vùng DHMT nói riêng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực bảo vệ hệ thống khí hậu toàn cầu của Việt Nam.

Tuy vậy, hệ thống chính sách ứng phó với BĐKH ở Việt Nam vẫn còn những lỗ hổng, vẫn còn những nội dung chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế. Điều này gây ra khó khăn trong việc xây dựng, cập nhật, chỉnh sửa các văn bản liên quan và thực hiện các cam kết của Việt Nam đối với BĐKH tại hiệp ước, quy định quốc tế; số lượng các văn bản chính sách được ban hành nhiều, vẫn còn tình trạng “quá nhiều chiến lược, nhưng thiếu giải pháp cụ thể”, nhất là các giải pháp về huy động nguồn lực(14), công nghệ, nhân lực, quản trị, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao, một số chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thực tế, như: các chính sách về phát triển và quản lý thị trường các bon, tín chỉ các bon, định giá các bon,... ; thiếu các quy định bảo đảm tính liên ngành, quản lý tổng hợp về BĐKH, thiếu văn bản hướng dẫn về phương thức chia sẻ cơ sở dữ liệu, thông tin về BĐKH, hướng dẫn cơ chế ưu tiên cho hoạt động thích ứng BĐKH của các ngành, các quy định và hướng dẫn cụ thể để ứng phó với BĐKH theo các vùng ảnh hưởng khác nhau để có các biện pháp dựa vào tự nhiên hoặc can thiệp tích cực để chủ động ứng phó với BĐKH, trong đó có vùng DHMT.

Việc tích hợp BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đã thu hút sự quan tâm của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương. Tuy nhiên, việc lồng ghép các nội dung cụ thể về ứng phó với BĐKH trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp vẫn còn nhiều hạn chế và chưa có sự thay đổi rõ rệt.

Mức độ phối hợp giữa các cấp, các ngành trong ứng phó với BĐKH vẫn còn hạn chế. Trong các kế hoạch và chương trình quốc gia về BĐKH, vai trò và trách nhiệm của các bộ,ngành và địa phương đã được xác định rõ ràng, tuy nhiên, việc phối hợp giữa các bên liên quan trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH trên thực tế vẫn còn rất mờ nhạt.

Việc triển khai chính sách ứng phó với BĐKH tại vùng DHMT

Các địa phương ở vùng DHMT đang xây dựng và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển các ngành kinh tế theo hướng dài hạn, trong đó đã nghiên cứu, tích hợp các biện pháp ứng phó với BĐKH. Ngày 14 - 4 - 2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung thời kỳ 2021 - 20230, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch bảo đảm yêu cầu hoạch định và phát triển hướng đến mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường và thích ứng với BĐKH.

Căn cứ mục tiêu và nhiệm vụ tại Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050, các địa phương xây dựng, hoàn thiện và ban hành các kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH giai đoạn 2021 - 2030, thực hiện tích hợp, lồng ghép mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp vào nội dung quy hoạch của tỉnh, thành phố và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương.

Tuy nhiên, việc chủ động ứng phó với BĐKH ở các địa phương DHMT vẫn còn một số hạn chế, đó là: Các hoạt động ứng phó với BĐKH còn chưa có tính hệ thống và đồng bộ, đặc biệt là các tỉnh có sự ảnh hưởng liên hoàn từ BĐKH như lũ lụt, sạt lở, hạn hán, xâm nhập mặn. Các cấp quản lý, ngành chức năng, cộng đồng và doanh nghiệp hiện chưa thể hiện hết vai trò và trách nhiệm trong việc ứng phó với BĐKH. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chưa thực sự tận dụng được lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng. Kinh tế nông nghiệp vẫn gặp khó khăn trước tình trạng thoái hóa đất và không bảo đảm tưới tiêu. Hợp tác quốc tế trong việc ứng phó với BĐKH ở vùng vẫn chưa được thực hiện tích cực và cơ bản. Những điều này tạo ra tâm thế chưa thực sự chủ động của vùng trong việc ứng phó với BĐKH và làm tăng nguy cơ thiệt hại đối với kinh tế và xã hội do BĐKH gây ra.

3. Một số khuyến nghị

Để triển khai hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đàng, đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03-11-2022 của Bộ Chính trị, trên cơ sở kịch bản BĐKH và nước biển dâng vùng DHMT, thực trạng BĐKH thời gian qua và qua đánh giá hệ thống chính sách ứng phó BĐKH hiện hành, bên cạnh việc thực hiện các chính sách chung của quốc gia, vùng DHMT cần thiết lập những chính sách đặc thù, phù hợp với điều kiện và tài nguyên của vùng để đóng góp vào việc bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn cho cư dân.

Các chính sách này phải hướng đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, tạo ra các công việc làm thân thiện với môi trường, và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân…

Những khuyến nghị cụ thể:

Một là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực BĐKH, trong đó sớm nghiên cứu, xây dựng Luật Biến đổi khí hậu; tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về BĐKH theo hướng tổng hợp, đa ngành, liên vùng và đáp ứng yêu cầu hội nhập, thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam; sớm xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả của các hoạt động thích ứng với BĐKH vùng DHMT.

Hai là, lồng ghép nội dung BĐKH trong các quy hoạch tỉnh, quy hoạch ngành quốc gia trên cơ sở xem xét kịch bản BĐKH và nước biến dâng đổi với toàn vùng DHMT và từng địa phương trong vùng.

Ba là, nghiên cứu, ban hành và thực hiện các chính sách đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế của vùng, nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của các địa phương và toàn vùng, huy động tối đa nguồn lực và sự tham gia của các bên liên quan vào ứng phó với BĐKH.

Bốn là, tiếp tục đầu tư, nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH cho vùng DHMT, trong đó trọng tâm là xây dựng hệ thống thông tin, cơ sỡ dữ liệu, hệ thống cảnh báo, dự báo, giám sát BĐKH, các hạ tầng quan trọng khác; đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ liên quan đến công tác ứng phó với BĐKH; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về BĐKH.

Năm là, cần tiến hành các hoạt động: (i) Phân tích và đánh giá sự thay đổi của khí hậu và các hiện tượng cực đoan nhằm cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định thích ứng với BĐKH vùng DHMT; (ii) Đánh giá tác động của BĐKH, tình trạng dễ bị tổn thương, năng lực thích ứng; đề xuất giải pháp khoa học công nghệ thích ứng với BĐKH cho vùng DHMT; (iii) Đánh giá năng lực, vốn tự nhiên thích ứng với BĐKH và cơ hội do BĐKH mang lại cho vùng DHMT; xác định thiếu hụt, nhu cầu thích ứng với BĐKH vùng DHMT; (iv) Xây dựng, đề xuất các dự án, công trình có tính liên vùng thích ứng với BĐKH nhằm phát triển bền vững vùng DHMT; (v) Thực hiện việc xây dựng và triển khai một hệ thống đo đạc, báo cáo, và thẩm định (MRV) đối với các hoạt động thích ứng, bảo đảm tính khả thi trong việc liên kết với hệ thống MRV quốc gia.

_________________

(1) Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê, https://www.gso.gov.vn.
(2) Trương Minh Dục: “Biến đổi khí hậu và môi trường ở Duyên hải miền Trung”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4-2015.
(3) Tổng cục Phòng chống thiên tai: “Thiên tai năm 2021 còn diễn biến phức tạp”, https://phunuvietnam.vn.
(4) Xem: Nghệ An: Tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ, https://baotainguyenmoitruong.vn; Mưa lũ ở Quảng Ngãi làm 9 người chết và mất tích, https://cand.com.vn; Sở Thông tin và Truyền thông Quảng Bình: Bản tin ngày 19/10/2016, https://stttt1.quangbinh.gov.vn.
(5) Xem: Floodlish: Vietnam - 7,000 People Displaced by Floods in Central Provinces; C. Luu, Bui, Q.D. and von Meding, J: "Mapping direct flood impacts from a 2020 extreme flood event in Central Vietnam using spatial analysis techniques", International Journal of Disaster Resilience in the Built Environment. 14, 2021, tr. 85-99.
(6) Hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh miền Trung, http://vnmha.gov.vn.
(7) Duyên hải Nam Trung bộ đối mặt với hoang mạc hóa, https://www.sggp.org.vn.
(8) Xói lở dữ dội ở bờ biển Nam miền Trung: Nhiều hậu quả nặng nề, https://www.vietnamplus.vn.
(9) Báo Nghệ An: Nghệ An: Biển đang "lấn" vào đất liền, 2016.
(10) Biển lấn khu dân cư, cần gấp kè chắn sóng, https://tuoitre.vn.
(11) Bộ Tài nguyên và Môi trường: Kịch bản Biến đổi khí hậu, http://vnmha.gov.vn.
(12) Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10-01-2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07-7-2022 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07-11-2022 quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô dôn.
(13) Gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT ngày 07-01-2022 quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường về ứng phó với biến đổi khí hậu; Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10-01-2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Thông tư số 06/2023/TT-BTNMT ngày 31-7-2023 hướng dẫn lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch; Thông tư số 17/2022/TT-BTNMT ngày 15-11-2022 quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải.
(14) Để thực hiện được các mục tiêu đặt ra về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam cần khoảng 86 tỷ USD đến năm 2030 và 370 tỷ USD cho lộ trình chuyển dịch đến năm 2050.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững vùng duyên hải miền Trung Việt Nam
    POWERED BY