(LLCT) - Bài viết phân tích những cơ hội và thách thức trong phát triển logistics xanh tại vùng Nam Trung Bộ, đồng thời nêu sự khác biệt vùng và tác động của liên kết vùng, liên kết ngành đến phát triển logistics xanh, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và xây dựng năng lực cạnh tranh trong chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế.
TS LÊ MINH ĐỨC
Trường Chính trị Đà Nẵng
Từ khóa: logistic xanh, liên kết vùng, Nam Trung Bộ, phát triển bền vững.
1. Mở đầu
Trong tiến trình toàn cầu hóa, logistics phát triển mạnh và là ngành có nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Do đó, logistics xanh trở thành xu hướng tất yếu để giảm tác động môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, đã đưa ra khái niệm, “Logistics xanh là hoạt động Logistics hướng tới các mục tiêu bền vững, thân thiện và bảo vệ môi trường, giảm tối đa tác động tiêu cực đến môi trường”(1). Ngày 22-7-2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg về kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, trong đó logistics xanh được xác định là một trong những lĩnh vực ưu tiên nhằm thúc đẩy phát triển bền vững. Vùng Nam Trung Bộ với vị trí chiến lược và tiềm năng kinh tế, đang đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức trong việc phát triển logistics xanh. Do đó, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phù hợp để tận dụng cơ hội, đồng thời vượt qua thách thức trong phát triển logistics xanh tại vùng là cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Tại Việt Nam, Luật Thương mại 2005 lần đầu tiên luật đưa khái niệm dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Điều 3, Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30-12-2017 về kinh doanh dịch vụ logistics, quy định các lĩnh vực kinh doanh thuộc dịch vụ logistics gồm 17 loại khác nhau.
Logistics xanh đang trở thành xu hướng phát triển chiến lược trong ngành logistics trên toàn cầu và tại Việt Nam, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nghiên cứu Phát triển bền vững logistics xanh ở Việt Nam, đề cập 5 nội dung chính: xanh hóa vận tải, kho bãi, đóng gói, hệ thống thông tin và phát triển logistics ngược (thu hồi, tái sử dụng sản phẩm và xử lý chất thải). Các giải pháp trọng tâm gồm xây dựng hệ thống logistics cho chuỗi cung ứng xanh với 3 cấp độ: doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xanh, nền tảng chuỗi cung ứng xanh liên công ty, chuỗi cung ứng tuần hoàn kết hợp logistics ngược(2).
Trong nghiên cứu Thuận lợi và khó khăn đối với phát triển logistics xanh tại Việt Nam chỉ ra rằng, thời gian qua, nhờ sự quyết tâm của Chính phủ trong phát triển bền vững và xanh hóa nền kinh tế, logistics xanh tại Việt Nam đã có thuận lợi như: hạ tầng cải thiện, doanh nghiệp tích hợp logistics xanh vào chiến lược, sự ủng hộ từ người tiêu dùng. Tuy nhiên, ngành vẫn gặp khó khăn: hạ tầng chưa đồng bộ, hạn chế vận tải đa phương thức, khó ứng dụng công nghệ, thực thi pháp luật yếu, hợp tác giữa các bên chưa hiệu quả(3).
Ngoài ra, nghiên cứu Logistics xanh - giải pháp chiến lược phát triển doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam cũng nhấn mạnh, ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh nhưng gặp thách thức: chi phí cao do phụ thuộc vận tải đường bộ; hạ tầng giao thông và kho bãi lạc hậu; doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu liên kết; ô nhiễm từ bao bì nhựa; gánh nặng thuế, phí và thiếu chiến lược bền vững(4).
Các nghiên cứu về logistics xanh tại Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc giảm tác động từ môi trường và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Các thuận lợi được nêu gồm: tiềm năng kinh tế, ứng dụng công nghệ, sự hỗ trợ chính sách,… nhưng vẫn tồn tại thách thức về hạ tầng, chi phí, nhân lực, hợp tác giữa các chủ thể. Dù có nhiều giải pháp về hoàn thiện pháp lý, phát triển hạ tầng bền vững, ứng dụng công nghệ,… các nghiên cứu chủ yếu phân tích tổng thể, chưa tập trung vào đặc thù từng vùng như Nam Trung Bộ hay đánh giá sâu tác động của liên kết vùng, ngành và chuỗi giá trị.
2.2. Xây dựng, phát triển dịch vụ logistic vùng Nam Trung Bộ
Thứ nhất, hoạt động thu hút đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng logistics tại Nam Trung Bộ đang được một số địa phương trong vùng chú trọng triển khai. Thời gian qua, các địa phương đã triển khai các kế hoạch phát triển logistics và nâng cao Chỉ số hiệu quả logistics. Cụ thể, thành phố Đà Nẵng đã triển khai nhiều dự án logistics trọng điểm như: Trung tâm phân phối Con Ong (100 tỷ đồng), Trung tâm Logistics Mộc Hoa (250 tỷ đồng)... Thành phố cũng đẩy mạnh hạ tầng giao thông với cảng Tiên Sa, Bến Cảng Liên Chiểu, cùng Dự án di dời ga Đà Nẵng để phát triển logistics đường sắt(5). Tại địa bàn Quảng Nam, nay đã nhập vào Đà Nẵng sân bay Chu Lai được quy hoạch thành sân bay quốc tế cấp 4F, dự kiến đến năm 2030 đạt công suất khoảng 10 triệu hành khách/năm và khoảng 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm(6). Tỉnh Bình Định trước khi nhập với tỉnh Gia Lai cũng hoàn thiện hạ tầng giao thông, thu hút đầu tư vào kho bãi, cầu cảng và phương tiện vận tải. Cụm cảng biển Quy Nhơn, gồm cảng Quy Nhơn và cảng Thị Nại, đã tăng sản lượng hàng hóa từ 8,8 triệu tấn năm 2019 lên hơn 10 triệu tấn năm 2023(7). Tỉnh Khánh Hòa có các cảng biển như: Cảng quốc tế Cam Ranh, Cảng Cam Ranh, Bắc Vân Phong và Nam Vân Phong, nhưng chưa khai thác hết tiềm năng. Sở Công Thương phối hợp với các ngành và Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics triển khai giải pháp phát triển nguồn nhân lực, xây dựng chỉ số cạnh tranh, kêu gọi doanh nghiệp cảng hợp tác với hãng tàu để đề xuất chính sách hỗ trợ xuất khẩu(8).
Thứ hai, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực logistics gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Các địa phương chưa có những chính sách cụ thể cho phát triển dịch vụ logistics, mà lồng ghép trong các chương trình, chính sách phát triển chung của các ngành, lĩnh vực khác; thêm vào đó, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực logistics gặp nhiều khó khăn, hạn chế khi nhiều đơn vị chồng chéo, trùng lặp về chức năng, thiếu tính liên kết vùng chặt chẽ. Doanh nghiệp logistics chủ yếu cung cấp dịch vụ đơn lẻ như giao nhận, kho bãi, bốc dỡ hàng hóa chưa phát triển chuyên nghiệp. Các thách thức lớn như thiếu vốn, nhân lực chuyên môn hạn chế, thiếu chuyên gia tư vấn quản lý ngành logistics.
2.3. Cơ hội và thách thức của vùng Nam Trung Bộ trong phát triển logistics xanh nhằm phát triển nhanh và bền vững
Về cơ hội:
Thứ nhất, phát triển logistics xanh là một chủ trương được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy thế mạnh của các địa phương. Tại Việt Nam, logistics xanh dần trở thành xu hướng nổi bật với cơ sở pháp lý vững chắc. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ, bao gồm logistics. Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22-02-2021 của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14-02-2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025) đề ra 61 nhiệm vụ phát triển logistics bền vững, ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 yêu cầu giảm phát thải và sử dụng tài nguyên hiệu quả. Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 02-10-2020 và Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01-10-2021 (Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030) cũng nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh qua hiện đại hóa vận tải và sử dụng năng lượng tái tạo. Các chính sách hỗ trợ giúp doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, hướng tới hệ thống logistics bền vững.
Thứ hai, hệ thống cảng biển, mạng lưới giao thông đa phương thức cùng với tiềm năng xuất khẩu của vùng tạo điều kiện thúc đẩy phát triển logistics xanh. Vùng Nam Trung Bộ sở hữu hệ thống cảng biển lớn như: Đà Nẵng, Quy Nhơn, Dung Quất, Cam Ranh, Chu Lai, Sa Kỳ, Vũng Rô, Nha Trang,… là điểm giao thương quốc tế quan trọng. Cảng Đà Nẵng là trung tâm logistics lớn, phục vụ xuất khẩu thủy sản, nông sản, đồ gỗ, sản phẩm công nghiệp. Cảng Chu Lai hỗ trợ xuất khẩu ô tô và linh kiện điện tử, trong khi cảng Sa Kỳ chuyên vận tải nội địa và xuất khẩu thủy sản. Hệ thống cảng được hỗ trợ bởi mạng lưới giao thông đa phương thức, gồm cao tốc Bắc - Nam, Quốc lộ 1A, các sân bay quốc tế, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
Thứ ba, bối cảnh hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho vùng Nam Trung Bộ phát triển logistics xanh. Việc tham gia các FTA như CPTPP, EVFTA và RCEP giúp vùng gia tăng xuất khẩu, mở rộng thị trường và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Các tiêu chuẩn môi trường thúc đẩy chuyển đổi sang logistics xanh, từ năng lượng tái tạo đến công nghệ số. Vị trí chiến lược và hệ thống cảng thu hút đầu tư vào logistics xanh, với các giải pháp giảm phát thải và vận tải đa phương thức. Hội nhập quốc tế cung cấp công nghệ, kinh nghiệm và vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, giúp vùng trở thành trung tâm logistics hiện đại.
Thứ tư, sự phát triển của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo nên “sân chơi” toàn cầu, thúc đẩy hình thành các chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất hiện đại, từ đó mở ra cơ hội lớn cho phát triển logistics xanh ở vùng Nam Trung Bộ. Các công nghệ tiên tiến như AI, IoT, Big Data và blockchain đang tối ưu hóa chuỗi cung ứng và quản lý logistics. Các cảng biển trong vùng như Đà Nẵng, Dung Quất, Chu Lai và Quy Nhơn triển khai hệ thống cảng thông minh, giám sát hàng hóa và giảm thời gian lưu kho. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy sử dụng phương tiện vận tải xanh và năng lượng tái tạo, đồng thời áp dụng blockchain để truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Những sáng kiến này nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển logistics xanh, đóng góp vào tăng trưởng bền vững vùng.
Về thách thức:
Thứ nhất, thách thức từ thể chế và tổ chức quản lý hoạt động logistic. Mặc dù các quy định về thuế và phí môi trường như Luật Thuế Bảo vệ môi trường năm 2010 được áp dụng, việc triển khai không đồng nhất giữa các địa phương. Một số chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích đầu tư vào logistics xanh, như Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22-5-2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế chưa được triển khai hiệu quả. Năng lực quản lý yếu kém và chính sách logistics thiếu đồng bộ, cùng sự chồng chéo chức năng giữa các cơ quan, làm giảm hiệu quả và cạnh tranh của vùng.
Thứ hai, thách thức trong công tác đào tạo về dịch vụ logistics. Công tác đào tạo logistics ở Việt Nam, đặc biệt là tại Nam Trung Bộ, mới được chú trọng gần đây với ba hình thức: đào tạo chính thức tại các trường, đào tạo qua hiệp hội và trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn thiếu sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, khiến nguồn nhân lực không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng.
Thứ ba, liên kết vùng chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến phát triển logistics xanh ở Nam Trung Bộ. Việc thiếu sự phối hợp giữa các địa phương dẫn đến hoạt động cảng biển rời rạc, lãng phí nguồn lực và tăng chi phí vận chuyển. Chính sách hợp tác vùng thiếu rõ ràng, cản trở chuỗi giá trị bền vững. Quy hoạch vùng hiện nay thiếu tính tổng thể và thống nhất, phân bổ chưa hợp lý, thiếu cơ chế phân cấp quản lý.
Thứ tư, hạn chế về kết cấu hạ tầng, vốn và công nghệ logistics. Hệ thống giao thông liên vùng ở Nam Trung Bộ còn nhiều hạn chế, với các tuyến cao tốc chưa hoàn thiện và lưu lượng phương tiện tại quốc lộ 1A quá tải. Hạ tầng kho bãi thiếu tiêu chuẩn xanh, công nghệ logistics thông minh còn hạn chế, việc áp dụng công nghệ giảm phát thải gặp khó khăn do chi phí cao. Hạ tầng thương mại yếu kém, làm giảm năng lực cạnh tranh và cản trở phát triển logistics xanh.
Thứ năm, áp lực từ yêu cầu bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu. Vùng Nam Trung Bộ chịu ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu, với bão, lũ làm suy giảm kết cấu hạ tầng giao thông và logistics. Áp lực bảo vệ môi trường yêu cầu doanh nghiệp logistics áp dụng tiêu chuẩn xanh, chi phí cao và hạ tầng hạn chế. Các cảng như Quy Nhơn và Chu Lai vẫn phụ thuộc vào phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch, gia tăng phát thải khí nhà kính.
2.4. Giải pháp phát triển logistics xanh nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng Nam Trung Bộ
Một là, đầu tư mang tính chiến lược, chú trọng tăng cường liên kết vùng, liên kết ngành, liên kết chuỗi giá trị, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cơ chế khuyến khích đầu tư vào logistics
Để phát triển logistics xanh tại Nam Trung Bộ, cần đầu tư chiến lược, tăng cường liên kết vùng và phối hợp giữa các địa phương. Quy hoạch quốc gia, vùng và ngành cần lồng ghép vấn đề liên kết vùng với kế hoạch đầu tư logistics bổ trợ, không trùng lặp. Cơ chế hợp tác chặt chẽ, thống nhất quy hoạch và tận dụng hiệu quả nguồn lực, vị trí địa lý là yếu tố then chốt. Thúc đẩy liên kết ngành giữa logistics với công nghiệp, thương mại, nông nghiệp để tối ưu chuỗi cung ứng xanh. Cần đẩy nhanh giải ngân vốn cho các dự án liên vùng như: cảng biển, cảng cạn, đường bộ và đường sắt, tạo mạng lưới logistics hiệu quả. Hệ thống dữ liệu chung giúp tối ưu quản lý, chia sẻ thông tin, giảm chi phí và thời gian vận chuyển. Thành lập cơ quan quản lý logistics cấp vùng trên cơ sở bảo đảm giám sát, tránh phát triển tự phát, đồng thời cải cách thủ tục hành chính nhất quán để thu hút đầu tư. Các chính sách khuyến khích như ưu đãi thuế và hỗ trợ vốn sẽ thúc đẩy doanh nghiệp tham gia phát triển logistics xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh toàn vùng.
Hai là, hoàn thiện hạ tầng logistics xanh
Tại vùng Nam Trung Bộ, việc hoàn thiện hạ tầng logistics xanh cần được ưu tiên nhằm tận dụng lợi thế vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng. Cần tập trung đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông kết nối giữa các cảng biển lớn, các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm trong vùng. Hạ tầng giao thông nội vùng, gồm các tuyến đường như cao tốc Bắc - Nam phía Đông, các tuyến quốc lộ, hệ thống đường sắt cần được nâng cấp đồng bộ để giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu thông hàng hóa. Bên cạnh đó, các chính sách thông thoáng về hải quan tại các cửa khẩu, cảng biển cần được thực hiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản, công nghiệp chế biến là thế mạnh của vùng.
Ba là, tăng cường ứng dụng công nghệ xanh và nâng cao nhận thức cộng đồng
Các địa phương cần thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh trong logistics, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại, như: quản lý chuỗi cung ứng thông minh, phương tiện dùng năng lượng tái tạo và giải pháp giảm khí thải carbon. Ưu tiên tích hợp năng lượng mặt trời và gió vào hạ tầng logistics để phát triển bền vững. Song song với đó, cần nâng cao nhận thức cộng đồng và doanh nghiệp về lợi ích của logistics xanh thông qua truyền thông, hội thảo, công tác đào tạo. Đồng thời, đẩy mạnh vai trò của các trường học và cơ sở đào tạo nghề trong giảng dạy, nghiên cứu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu logistics bền vững.
Bốn là, đẩy mạnh liên kết trong đào tạo nhân lực logistics
Để tăng cường liên kết trong đào tạo dịch vụ logistics tại Nam Trung Bộ, cần cơ chế hợp tác ba bên giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp, bảo đảm đào tạo sát nhu cầu thị trường. Các cơ sở đào tạo cần cập nhật chương trình linh hoạt, mời chuyên gia giảng dạy, tổ chức thực tập và phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp. Chính quyền địa phương cần làm cầu nối, hỗ trợ hợp tác và cung cấp thông tin thị trường. Đồng thời, cần thúc đẩy đào tạo với hiệp hội ngành nghề, tổ chức các khóa học ngắn hạn chuyên sâu, đặc biệt về kỹ năng và ngoại ngữ, xây dựng hệ thống dữ liệu chung để tối ưu hóa nguồn nhân lực logistics.
Năm là, đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong phát triển các trung tâm logistics
Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển các trung tâm logistics tại Nam Trung Bộ có vai trò quan trọng trong nâng cao khả năng kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện nay, đang thiếu các trung tâm logistics đạt chuẩn quốc tế, mặc dù có tiềm năng lớn trong xuất khẩu nông sản, thủy sản và công nghiệp chế biến. Cần ưu tiên xây dựng một trung tâm logistics liên vùng, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế về logistics xanh và bền vững. Hợp tác với các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp logistics nước ngoài sẽ giúp huy động vốn, kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển bền vững.
Sáu là, đồng bộ hóa thể chế và nâng cao năng lực quản lý logistics xanh
Cần đồng bộ hóa các chính sách, đặc biệt là cách thức triển khai Luật Thuế Bảo vệ môi trường năm 2010, bảo đảm tính nhất quán trong việc thúc đẩy logistics xanh. Bên cạnh đó, các chính sách hiện hành như Nghị định 82/2018/NĐ-CP cần được điều chỉnh để tích hợp rõ ràng các ưu đãi về thuế, đất đai, hỗ trợ tài chính cho các dự án logistics xanh tại khu công nghiệp. Đồng thời, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan địa phương thông qua đào tạo chuyên môn và ứng dụng công nghệ số trong giám sát tiêu chuẩn vận tải thân thiện với môi trường theo Nghị định 10/2020/NĐ-CP ngày 17-01-2020 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Thiết kế các chính sách khuyến khích mạnh mẽ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào logistics xanh, như ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính.
3. Kết luận
Vùng Nam Trung Bộ đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn trong việc phát triển logistics xanh. Để khai thác triệt để tiềm năng, khắc phục thách thức, cần có chiến lược phát triển đồng bộ, sự hợp tác chặt chẽ giữa các cấp, ngành và doanh nghiệp, cùng với việc đầu tư vào công nghệ và kết cấu hạ tầng logistics hiện đại. Khi đó, vùng Nam Trung Bộ mới trở thành trung tâm logistics xanh, góp phần vào sự phát triển bền vững của vùng, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
_________________
Ngày nhận bài: 8-5-2025; Ngày bình duyệt: 10-6-2025; Ngày duyệt đăng: 01-10-2025.
Email tác giả: leminhductct1978@gmail.com
(1) Bộ Công thương: Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, Nxb Bộ Công thương, Hà Nội, 2022, tr.130.
(2) Xem: Nguyễn Tiến Minh, Nguyễn Thị Thu Hà và Nguyễn Đức Dương: “Phát triển bền vững logistics xanh ở Việt Nam”, https://tapchitaichinh, ngày: 27-6-2023.
(3) Xem: Bảo Hân: “Thuận lợi và khó khăn đối với phát triển logistics xanh tại Việt Nam”, https://vlr.vn, ngày: 10-5-2023.
(4) Xem: Nguyễn Đình Quang: “Logistics xanh - giải pháp chiến lược phát triển doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam”, https://kinhtevadubao.vn, ngày: 23-9-2024.
(5) Xem: Thanh Trang: “Đà Nẵng phấn đấu trở thành Trung tâm logistics lớn của cả nước”, http://baokiemtoan.vn, ngày: 10-6-2024.
(6) Xem: Hoài Văn: “Tin mới về đầu tư sân bay Chu Lai 11.000 tỷ đồng”, https://tienphong.vn, 12-3-2025.
(7) Xem: Phú Dương: “Bình Định phát triển logistics gắn với hoàn thiện hạ tầng giao thông”, https://baodautu.vn, ngày: 3-11-2024.
(8) Xem: Đàm Linh: “3 tỉnh Nam Trung Bộ kiến nghị Thủ tướng tháo gỡ 'điểm nghẽn' để tăng trưởng”, https://tuoitre.vn, ngày: 13-3-2025.