(LLCT) - Với 31 năm tuổi đời, hơn 13 năm liên tục cống hiến cho cách mạng Việt Nam, cuộc đời đồng chí Lương Văn Tri ngắn ngủi nhưng chói sáng, có nhiều đóng góp cho Đảng và cách mạng Việt Nam. Hy sinh khi sự nghiệp cách mạng còn dang dở, đồng chí Lương Văn Tri mãi là tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần yêu nước, trung dũng, kiên cường; một tượng đài bất tử trong tâm khảm của đồng chí, đồng bào, của mỗi người dân xứ Lạng và của cả dân tộc Việt Nam.
ThS TRẦN THỊ MỸ LAN
ThS VÕ THỊ THANH THÚY
Trường Cao đẳng Du lịch Đà Nẵng
TS ĐINH QUANG THÀNH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Đồng chí Lương Văn Tri có nhiều hoạt động, đóng góp trong thời kỳ vận động thành lập Đảng
Đồng chí Lương Văn Tri, sinh ngày 17-8-1910 trong một gia đình nông dân người Tày, có truyền thống yêu nước và hiếu học tại làng Bản Hẻo, xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn (nay là thôn Bản Hẻo, xã Điềm He, tỉnh Lạng Sơn). Những năm tháng học ở trường làng, Trường Tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn, đồng chí Lương Văn Tri luôn thể hiện đức tính ham học, đạt nhiều thành tích xuất sắc trong học tập, được thầy giáo khen ngợi, bạn bè khâm phục, noi gương.
Trong những năm 1925 - 1926, ngay từ khi còn là học sinh của Trường tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn, đồng chí Lương Văn Tri đã tham gia phong trào đấu tranh yêu nước của học sinh, sinh viên đòi trả tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu và để tang chí sĩ Phan Châu Trinh.
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập (6-1925), các sự kiện và lớp huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu (Trung Quốc) đã tác động mạnh mẽ đến Lương Văn Tri. Với lòng yêu nước nồng nàn, ông quyết tâm tham gia vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Để thực hiện hoài bão này, trong kỳ nghỉ hè năm học 1926-1927, Lương Văn Tri cùng bạn học là Hoàng Văn Thụ đã tìm cách vượt biên sang Trung Quốc, nhằm liên lạc và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Năm 1928, đồng chí Lương Văn Tri cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ bí mật từ Cốc Nam, xã Tân Yên, châu Văn Uyên (nay là xã Hoàng Văn Thụ, tỉnh Lạng Sơn) sang Trung Quốc bắt liên lạc với ông Bùi Ngọc Thành, đại diện của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở khu vực Bằng Tường - Long Châu - Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc). Vào cuối năm 1928, đồng chí Lương Văn Tri được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công sinh hoạt tại Chi hội Nam Ninh. Đây là niềm vinh dự to lớn đối với một thanh niên yêu nước như Lương Văn Tri. Từ đây, với tinh thần nỗ lực không ngừng, luôn hết mình vì sự nghiệp chung, đồng chí đã từng bước dấn thân vào con đường cách mạng, tiếp thu lập trường của giai cấp công nhân và giác ngộ lý tưởng cộng sản.
Trong hai năm 1928 - 1929 (sau sự kiện Quảng Châu công xã), chính quyền Quốc dân Đảng (Trung Quốc) câu kết với mật thám Pháp tăng cường khủng bố, bắt bớ những người yêu nước Việt Nam. Vượt qua sự kiểm soát gắt gao của địch, đồng chí Lương Văn Tri đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đón hàng chục cán bộ từ trong nước sang tham gia 2 lớp huấn luyện ở Bản Đáy (Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc), sau đó đưa trở về nước hoạt động an toàn.
Năm 1929, cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Lương Văn Tri tham gia tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng - là một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng ta. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí Lương Văn Tri trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam - thế hệ đảng viên thời dựng Đảng.
2. Đồng chí Lương Văn Tri là đảng viên nòng cốt của “Chi bộ Đảng đặc biệt Long Châu” có nhiều đóng góp cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng và trong việc xây dựng, phát triển phong trào cách mạng vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh biên giới Việt – Trung
Sau Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5-1929), phong trào vận động thành lập chính đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam bùng lên mạnh mẽ trên cả ba miền Bắc – Trung – Nam, với sự ra đời của các tổ chức: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đến tháng 12-1929, sau thời gian hoạt động, thử thách và được giúp đỡ, các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Nọn, Hoàng Văn Thụ, và đồng chí Lương Văn Tri đã được kết nạp vào tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng, đồng thời tham gia thành lập Chi bộ Hải ngoại Long Châu (Trung Quốc). Sự ra đời của Chi bộ Long Châu đánh dấu bước phát triển quan trọng, gánh vác nhiệm vụ xây dựng và mở rộng phong trào cách mạng quần chúng ở vùng biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn, tổ chức đưa thanh niên yêu nước ra nước ngoài học tập huấn luyện, cũng như đảm nhận việc liên lạc, đưa đón cán bộ qua lại hai bên biên giới.
Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Lương Văn Tri và các đảng viên “Chi bộ đặc biệt Long Châu” đã tích cực tuyên truyền, vận động xây dựng cơ sở cách mạng và tổ chức Đảng ở khu vực biên giới Trung Quốc và Việt Nam, như cơ sở bí mật của Đảng tại Xưởng cơ khí Nam Hưng của ông Bùi Ngọc Thành; xưởng dệt Định Hưng (ở thị trấn Long Châu) và nhiều cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở dọc biên giới Việt - Trung. Điển hình là xây dựng được 3 tổ chức quần chúng trung kiên ở Lũng Nghịu (Bằng Tường, Trung Quốc). Từ 3 tổ chức quần chúng trung kiên này, các cơ sở cách mạng của quần chúng tiếp tục nhanh chóng phát triển ở xóm Khưa Lếch (Bằng Tường, Trung Quốc), tới các xóm Khưa Đa, Ma Mèo, Tà Lài thuộc xã Tân Yên, châu Văn Uyên, một số cơ sở ở châu Văn Lãng và thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Cuối năm 1931, do yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước và nhiệm vụ đào tạo cán bộ chính trị, quân sự, đồng chí Lương Văn Tri được Chi bộ Đảng bố trí vào học Trường Quân sự Nam Ninh (Trung Quốc), một mặt để phụ trách số thanh niên Cao Bằng, Lạng Sơn đang theo học tại đây, mặt khác về lâu dài đào tạo đồng chí thành người phụ trách quân sự của Đảng.
Năm 1933, đồng chí Lê Hồng Phong từ Liên Xô đến Quảng Tây (Trung Quốc), bắt liên lạc với tổ chức của Đảng (ở Long Châu) và mở các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng. Nhờ có hệ thống cơ sở cách mạng trung kiên ở dọc biên giới Việt - Trung do các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong và Lương Văn Tri xây dựng từ trước, việc đưa đón cán bộ sang Trung Quốc học tập, huấn luyện, sau đó đưa trở về nước hoạt động được thuận lợi, kịp thời bổ sung cho đội ngũ cán bộ đã bị địch bắt, hy sinh trong thời kỳ khủng bố trắng. Trong số cán bộ tham gia các lớp huấn luyện, đào tạo (ở Bản Đáy), nhiều người trở thành cán bộ nòng cốt của các tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng(1).
Trước yêu cầu đòi hỏi của phong trào cách mạng phải thiết lập cơ quan lãnh đạo Trung ương của Đảng, với sự hoạt động, giúp đỡ tích cực của “Chi bộ Đảng đặc biệt” ở Long Châu, trong đó có sự đóng góp nhiều mặt của đồng chí Lương Văn Tri; tháng 3-1934, đồng chí Lê Hồng Phong đã chủ trì thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng ở Ma Cao (Trung Quốc). Việc thành lập Ban chỉ huy ở ngoài, (Ban Chấp hành Trung ương lâm thời), đã có tác động hết sức to lớn đối với phong trào cách mạng trong nước. Trước hết là duy trì niềm tin của quần chúng đối với Đảng, đưa Đảng ta trở lại vai trò lãnh đạo cách mạng. Trên cơ sở đó, khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng trong cả nước ở giai đoạn sau. Sau khi Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng được thành lập, đồng chí Lương Văn Tri cũng là người trực tiếp tham gia thiết lập đường dây liên lạc giữa phong trào cách mạng trong nước với Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng, do đồng chí Lê Hồng Phong phụ trách.
3. Đồng chí Lương Văn Tri có những đóng góp quan trọng trong việc đào tạo, huấn luyện cán bộ quân sự, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng và Quân đội Nhân dân Việt Nam
Với nhiệt huyết cách mạng, năng lực hoạt động hiệu quả, tháng 11-1939, đồng chí Lương Văn Tri được Trung ương Đảng chỉ định tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, giữ cương vị Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy, phụ trách công tác quân sự. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, đồng chí Lương Văn Tri đã tổ chức mở các lớp huấn luyện quân sự cho đội ngũ cán bộ nòng cốt của Xứ ủy Bắc Kỳ. Cùng với việc huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự, đồng chí còn phụ trách xây dựng địa bàn An toàn khu (ATK) của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ (ở Hiệp Hòa, Bắc Giang); xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai trở thành căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước.
Đầu năm 1940, sau khi thị sát một số địa bàn, căn cứ cách mạng xung quanh Hà Nội, đồng chí Lương Văn Tri đã xin ý kiến Xứ ủy và đồng chí Bí thư Xứ ủy Hoàng Văn Thụ về chọn địa bàn tổng Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (nay là xã Hoàng Vân, tỉnh Bắc Ninh) làm nơi tổ chức huấn luyện quân sự. Trên cương vị mới, bằng những kiến thức được học và từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của mình, đồng chí đã trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về quân sự, cách tổ chức lực lượng tự vệ, chiến thuật du kích, sử dụng vũ khí thông dụng, chủ trương, đường lối của Đảng, cách thức tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng... Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong đào tạo, huấn luyện quân sự, nhưng với tinh thần khắc phục khó khăn, thực hiện phương châm vừa đào tạo, huấn luyện, vừa rút kinh nghiệm, đồng chí Lương Văn Tri đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện cho lớp cán bộ quân sự đầu tiên của Đảng và Quân đội ta. Số cán bộ quân sự sau khi được đào tạo đã kịp thời bổ sung cho các địa phương, nhất là ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Nhiều đồng chí cán bộ tham gia lớp học, sau này đã trở thành những tướng lĩnh, cán bộ chỉ huy quân sự tài năng của Quân đội ta. Đại tướng Hoàng Văn Thái, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, một trong những cán bộ tham gia khóa huấn luyện quân sự do đồng chí Lương Văn Tri phụ trách đã khẳng định: Anh Huy (tức đồng chí Lương Văn Tri) là một người rất nhạy bén, sâu sắc trong công việc, là người lãnh đạo, chỉ huy có tầm nhìn chiến lược, luôn tận tình chăm lo chu đáo cho cán bộ(2).
4. Đồng chí Lương Văn Tri - một chỉ huy quân sự tài năng, có đóng góp quan trọng vào xây dựng căn cứ địa cách mạng
Ngày 14-10-1941, Đội Du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập, đồng chí Lương Văn Tri được Trung ương chỉ định giữ chức vụ Chỉ huy trưởng. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Lương Văn Tri, Đội Du kích Bắc Sơn đã lớn mạnh về mọi mặt. Đội đã tổ chức các lớp huấn luyện quân sự; phát hành bản tin “Du kích” làm tài liệu tuyên truyền, vận động cách mạng (do đồng chí Lương Văn Tri làm chủ bút). Với phương châm vừa huấn luyện vừa hoạt động, thực hiện 5 lời thề danh dự: 1) Không phản Đảng; 2) Tuyệt đối trung thành với Đảng; 3) Kiên quyết phấn đấu và trả thù cho những đồng chí đã hy sinh; 4) Không hàng giặc; 5) Không hại dân. Đội Du kích Bắc Sơn ngày càng phát triển cả về số lượng và trình độ kỹ - chiến thuật quân sự. Tháng 7-1941, Đội Du kích Bắc Sơn được Thường vụ Trung ương Đảng đổi tên thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn (Đội Cứu quốc quân 1), đây là lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng và Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Trước yêu cầu tăng cường, củng cố lực lượng du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, Trung ương Đảng cử đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ(3), đang phụ trách lớp quân chính của Đảng ở Đức Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang (nay là xã Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) lên tăng cường cho Đảng bộ Bắc Sơn củng cố cơ sở quần chúng, phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt để xây dựng, củng cố khu căn cứ du kích vững mạnh, sẵn sàng chống địch khủng bố. Là Ủy viên quân sự của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Lương Văn Tri đã mang những tri thức chính trị, quân sự và sự hiểu biết của mình để chỉ đạo xây dựng Đội Du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị ngắn ngày ở Bắc Sơn do đồng chí Lương Văn Tri phụ trách và giảng dạy đã góp phần nâng cao trình độ quân sự, chính trị và ý thức kỷ luật cho du kích; chuẩn bị lực lượng để đưa về hoạt động ở các cơ sở cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ du kích được học tập về đường lối, chính sách của Đảng, phương pháp công tác cách mạng, tuyên truyền, vận động quần chúng và luyện tập các động tác quân sự cơ bản, cách sử dụng các loại vũ khí… Các tiểu đội du kích được tổ chức luyện tập hành quân, trú quân, trinh sát, phục kích; mỗi tiểu đội được phân công phụ trách một tiểu vùng ở từng địa phương, đi sâu vào từng bản làng, vừa làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng cách mạng và xây dựng tổ chức cơ sở, vừa tham gia lao động sản xuất với quần chúng. Cùng với huấn luyện quân sự, chính trị, các đơn vị du kích còn đẩy mạnh hoạt động, vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng, trừng bị bọn tay sai phản động đã gây tội ác với nhân dân...
Có thể khẳng định, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lương Văn Tri, căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai đã được củng cố và phát triển về nhiều mặt. Đến giữa năm 1941, căn cứ địa cách mạng này đã phát triển lan rộng sang các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Thái Nguyên… Từ kinh nghiệm xây dựng và tổ chức hiệu quả mô hình căn cứ địa cách mạng đầu tiên Bắc Sơn - Võ Nhai do đồng chí Lương Văn Tri làm chỉ huy, bước đầu đã hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta chỉ đạo xây dựng An toàn khu II – Bắc Ninh và các căn cứ địa cách mạng trên cả nước, từ đó phát triển thành các khu giải phóng, làm cơ sở cho chủ trương khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
5. Đồng chí Lương Văn Tri - Người cộng sản kiên trung, bất khuất, tấm gương đạo đức cao đẹp, trọn đời hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân
Là một thanh niên người dân tộc Tày, sớm có tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng, đồng chí Lương Văn Tri đã từ bỏ con đường “vinh thân, phì gia”, không chịu yên phận làm một viên chức sống dưới chế độ nô dịch của chính quyền thực dân, phong kiến. Đồng chí đã nguyện dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng đầy khó khăn gian khổ, hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Trong trận chiến ác liệt với quân thù, khi đã bị thương nặng, đồng chí Lương Văn Tri vẫn dũng cảm chiến đấu chặn địch để đồng đội rút lui khỏi vòng vây. Khi bị địch bắt, biết đồng chí là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Chỉ huy trưởng Đội Du kích Bắc Sơn, Chính trị viên Đội Cứu quốc quân 1, kẻ thù đã dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn cực hình nhằm lung lạc, khuất phục, nhưng đồng chí Lương Văn Tri đã tỏ rõ tinh thần bất khuất, giữ trọn khí tiết của người đảng viên cộng sản. Sau hơn một tháng bị giam cầm, tra tấn dã man, vết thương ngày càng trở nặng, đồng chí đã anh dũng hy sinh vào ngày 29 - 9 - 1941, tại nhà tù thị xã Cao Bằng.
Sớm tham gia phong trào đấu tranh yêu nước và hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lương Văn Tri đã dành tất cả tuổi thanh xuân và hy sinh trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nhiệt huyết yêu nước và tinh thần kiên trung, bất khuất của đồng chí được thể hiện bằng lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, tỏ rõ niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Đồng chí đã nêu tấm gương sáng về ý chí và khát vọng giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí đã thể hiện tư duy sáng tạo, quyết đoán của người chiến sĩ cộng sản trước mọi khó khăn, thử thách, mẫu mực về tác phong và phương pháp lãnh đạo, luôn sâu sát, gần gũi, yêu thương, giúp đỡ đồng bào, đồng chí.
Trên các cương vị lãnh đạo được giao, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; trước quân thù đồng chí đã kiên cường chiến đấu và hy sinh oanh liệt, giữ trọn khí tiết và danh dự của người đảng viên cộng sản. Những hoạt động và cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đã góp phần vào thắng lợi vĩ đại của Đảng và của dân tộc ta.
Với 31 năm tuổi đời, hơn 13 năm liên tục cống hiến cho cách mạng Việt Nam, cuộc đời đồng chí Lương Văn Tri ngắn ngủi nhưng chói sáng. Hy sinh khi sự nghiệp cách mạng còn dang dở, đồng chí Lương Văn Tri mãi là tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần yêu nước, trung dũng, kiên cường; một tượng đài bất tử trong tâm khảm của đồng chí, đồng bào, của mỗi người dân xứ Lạng và của cả dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã, đang và sẽ viết tiếp những trang mới, nhưng tên tuổi của nhà cách mạng Lương Văn Tri vẫn còn mãi trường tồn cùng dân tộc.
_________________
Ngày nhận bài: 10-8-2025; Ngày bình duyệt: 15-8-2025; Ngày duyệt đăng: 19-8-2025.
Email tác giả: dinhquangthanhvn@gmail.com
(1) Tài liệu lưu tại Quốc tế cộng sản: Báo cáo ngày 15-1-1935, do Hải An (tức Lê Hồng Phong) có ghi rõ: “Trong khoảng thời gian từ 10-1932 đến 3-1933, tôi… huấn luyện cho hơn 20 đồng chí từ trong nước qua, mỗi lớp học trong 2 tuần lễ. Những người tham gia tổ chức lớp có Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri”.
(2) Dẫn theo: Tờ trình số 1396-TTr/HVCTQG, ngày 09/11/2022 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Về việc xem xét, công nhận đồng chí Lương Văn Tri là lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
(3) Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đội quân tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2024, tr. 82.