(LLCT) - Công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực nội chính trong gần 40 năm đổi mới đạt được nhiều thành tựu, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của Đảng. Bài viết đánh giá thực trạng công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương, xác định những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới.
PGS, TS TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ
Ban Nội chính Trung ương
1. Thực trạng công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực nội chính
Trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về công tác nội chính không ngừng phát triển và hoàn thiện, phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng giai đoạn.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 7 văn bản quy định, điều chỉnh về tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương(1) (nếu tính cả giai đoạn giải thể Ban Nội chính Trung ương, có thêm 3 văn bản của Đảng và Nhà nước quy định về tổ chức bộ máy của cơ quan tham mưu trên lĩnh vực nội chính(2)); từ chỗ có 4 vụ, đơn vị vào năm 1986, tăng lên 6 vụ, đơn vị vào năm 1988; 5 vụ, đơn vị vào năm 1991; hợp nhất với Văn phòng Trung ương Đảng vào năm 2007; có 10 vụ, đơn vị vào năm 2013 và hiện nay có 12 vụ, đơn vị. Tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Đội ngũ cán bộ không ngừng được tăng cường cả về số lượng và trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức; phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan, đơn vị liên quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, khẳng định rõ vị thế, vai trò quan trọng trong hệ thống các cơ quan tham mưu của Đảng nói riêng, trong hệ thống chính trị nói chung. Đây là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu của Ban Nội chính Trung ương về lĩnh vực nội chính. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu lĩnh vực nội chính ngày càng được chú trọng.
Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên, kịp thời của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hai Ban Chỉ đạo; sự phối hợp, giúp đỡ có hiệu quả của các ban, bộ, ngành trung ương và địa phương; sự quyết tâm, đoàn kết, đồng lòng, nhất trí, tận tụy, sáng tạo của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, công tác tham mưu về lĩnh vực nội chính đã thu được thành tựu nổi bật, như: đã tập trung nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và các cấp ủy đảng xây dựng, ban hành và chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp; tham mưu chủ trương, giải pháp để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, cơ chế kiểm soát quyền lực, cơ chế chỉ đạo, phối hợp để phát hiện, xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng, cơ chế để phân hóa xử lý hình sự một số vụ án lớn, vụ việc lớn mà dư luận xã hội quan tâm, góp phần tăng cường sự đồng bộ, sự thống nhất, phối hợp chặt trong xử lý, kỷ luật của Đảng, xử lý hành chính và xử lý hình sự, vừa nghiêm minh, vừa nhân văn, đúng như tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Hằng năm, Ban Nội chính Trung ương đã xây dựng hàng trăm báo cáo, đề xuất gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, 02 Ban Chỉ đạo về lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp với nội dung tham mưu rất toàn diện, vừa tham mưu chủ trương, chính sách chiến lược, sơ kết, tổng kết, vừa tham mưu tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý điểm nghẽn, tạo đột phá…; sản phẩm tham mưu vừa thể hiện chiều sâu, vừa có tính lý luận cao. Cụ thể là:
Thứ nhất, công tác tham mưu về lĩnh vực nội chính đã thu được nhiều kết quả nổi bật.
Đã tích cực, chủ động theo dõi, nắm tình hình, kịp thời phối hợp tham mưu chỉ đạo xử lý các vấn đề phức tạp về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong đó, đã tổ chức các hội nghị giao ban hằng tháng, quý, chuyên đề về công tác nội chính, qua đó thống nhất đánh giá tình hình an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội để kịp thời tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nổi bật là Hội nghị sơ kết 05 năm thực hiện chủ trương của Thường trực Ban Bí thư về giao ban công tác nội chính.
Kết quả giao ban công tác nội chính định kỳ, chuyên đề đã mang lại ý nghĩa thiết thực trên nhiều mặt, là kênh trao đổi, chia sẻ thông tin quan trọng để các cơ quan nội chính và các cơ quan liên quan tăng cường phối hợp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, triển khai thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần nâng cao chất lượng tham mưu.
Đã chủ động nghiên cứu, tổng hợp, báo cáo Ban Bí thư về định hướng xử lý đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng, đối tượng kêu oan kéo dài; phối hợp nắm tình hình, hướng dẫn, đôn đốc, chỉ đạo xử lý một số vụ án, vụ việc thuộc lĩnh vực nội chính có khó khăn, vướng mắc kéo dài ở địa phương.
Công tác tiếp nhận, xử lý đơn thư, tiếp công dân; tham mưu, giúp người đứng đầu cấp ủy tiếp công dân và đối thoại với công dân được tăng cường, đạt hiệu quả cao, góp phần giải quyết dứt điểm một số vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp, bảo đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội. Đã tiếp nhận và xử lý nhiều đơn thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo; đã ban hành nhiều văn bản chuyển đơn, trả đơn và hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, nhất là các đơn liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo, các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.
Công tác thẩm định, tham gia ý kiến về công tác cán bộ được thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm, kịp thời, nhất là thẩm định nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương; tham gia ý kiến về việc thăng quân hàm cấp tướng trong lực lượng vũ trang; trong việc bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, quy hoạch nhân sự của các tỉnh, thành phố và nhân sự của các cơ quan, tổ chức ở trung ương.
Tham mưu lãnh đạo toàn diện công tác xây dựng pháp luật, từ việc tham mưu đề ra một số chủ trương, đường lối và chỉ đạo định hướng hoạt động xây dựng pháp luật; chủ trì, phối hợp tham mưu xây dựng, ban hành một số nghị quyết có nội dung lãnh đạo cụ thể (chuyên đề) về đường lối chiến lược cho hoạt động xây dựng pháp luật phù hợp quan điểm, đường lối của Đảng và thể chế hóa đúng đắn, kịp thời quan điểm, đường lối đó. Đặc biệt, đã chú trọng tham mưu nhận diện, phòng ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý những tác động, hướng lái chuyển hóa chính trị qua việc lợi dụng quan hệ hợp tác quốc tế về xây dựng pháp luật.
Thứ hai, làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu tham mưu, đề xuất Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, định hướng và giải pháp lớn thuộc lĩnh vực phòng, chống tham nhũng.
Tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tham nhũng nói chung, công tác phát hiện và xử lý tham nhũng nói riêng; tham mưu chỉ đạo hoàn thiện thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng…
Thẩm định, tham gia ý kiến đối với nhiều dự án, đề án. Chất lượng công tác thẩm định và tham gia ý kiến đối với các đề án, dự thảo văn bản về lĩnh vực phòng, chống tham nhũng được nâng lên, góp phần quan trọng vào việc hình thành chủ trương, chính sách lớn của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Ban Nội chính Trung ương đã tích cực, kiên trì, quyết liệt, sâu sát, tập trung tham mưu chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, góp phần tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vừa bảo đảm nghiêm minh, vừa bảo đảm tính nhân văn, được dư luận đồng tình rất cao. Bên cạnh đó, đã đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan chức năng thực hiện tốt hơn cơ chế phối hợp phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực trong quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của Thường trực Ban Chỉ đạo.
Thứ ba, công tác tham mưu về cải cách tư pháp ngày càng nâng cao chất lượng; kiện toàn bộ máy tham mưu, cải cách tư pháp.
Với vai trò là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Ban Nội chính Trung ương đã tham mưu xây dựng Chương trình hoạt động nhiệm kỳ, hằng năm; tiến hành thẩm định các đề án do Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp giao; tham mưu sơ kết, tổng kết một số nghị quyết của Đảng liên quan đến cải cách tư pháp(3) và theo dõi, đôn đốc các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Phương thức tham mưu về lĩnh vực nội chính cũng có nhiều đổi mới, nhất là công tác theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp có nhiều bước chuyển biến, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Ban Nội chính Trung ương đã tham gia nhiều đoàn kiểm tra liên ngành về kiểm tra hoạt động giám định tư pháp, công tác bảo vệ chính trị nội bộ,...; tham dự các cuộc họp, hội nghị và làm việc với các cấp ủy, tổ chức đảng để kiểm tra, đôn đốc công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp; chỉ đạo xử lý một số vấn đề phức tạp nổi lên liên quan đến an ninh quốc gia và các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài.
Hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp được chú trọng. Ban Nội chính Trung ương đã chủ động phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan báo chí định hướng thông tin, tuyên truyền về kết quả các phiên họp, cuộc họp của Ban Chỉ đạo, Thường trực Ban Chỉ đạo; tuyên truyền về các hội nghị toàn quốc.
Phương thức tham mưu xây dựng, ban hành chủ trương, đường lối của Đảng trên lĩnh vực nội chính của Ban Nội chính Trung ương ngày càng đa dạng, gắn tham mưu với nghiên cứu khoa học. Thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn, từ đó rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý, phục vụ công tác tham mưu xây dựng, ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử; tăng cường phối hợp trong công tác tham mưu; bảo đảm sản phẩm tham mưu là kết quả của trí tuệ tập thể.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, công tác tham mưu về lĩnh vực nội chính còn một số hạn chế, khó khăn là: (1) Công tác thẩm định, tham gia ý kiến đối với một số đề án, dự án luật, văn bản quy phạm pháp luật có lúc, có nơi còn chậm, chưa đầy đủ, toàn diện. (2) Công tác theo dõi, nắm tình hình, phối hợp tham mưu chỉ đạo xử lý các vấn đề phức tạp, nổi lên về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội tại một số địa bàn còn bị động, chưa sâu sát, kịp thời; việc phân loại, xử lý đơn thư, phản ánh, khiếu nại, tố cáo trong một số trường hợp, một số giai đoạn còn chậm. (3) Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu và chất lượng tham mưu về lĩnh vực nội chính chưa thực sự ngang tầm nhiệm vụ.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó là:
Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp là lĩnh vực khó, phức tạp, nhạy cảm; nhiều công việc phải thực hiện cùng thời điểm, có độ khó cao, nhưng phải hoàn thành trong thời gian ngắn, trong khi điều kiện, khả năng tiếp cận, nắm bắt tình hình vụ việc, vụ án, nghiên cứu, tham mưu, đề xuất của một số cán bộ, công chức còn hạn chế.
Việc nghiên cứu hoàn thiện lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp còn chậm, chưa toàn diện; một số nội dung còn ý kiến khác nhau nhưng chậm được làm rõ, khẳng định nên khó khăn cho công tác tham mưu.
Việc phối hợp giữa các vụ, đơn vị trong Ban Nội chính Trung ương với các cơ quan trong khối nội chính Trung ương và các cơ quan liên quan chưa thực sự hiệu quả.
2. Một số kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra hiện nay
Kinh nghiệm từ thực tiễn công tác tham mưu về lĩnh vực nội chính qua gần 40 năm đổi mới, nhất là từ khi tái thành lập Ban Nội chính Trung ương (năm 2013) đến nay là:
Một là, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tham mưu cho Đảng về lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. Nắm vững và quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về lĩnh vực nội chính qua các nhiệm kỳ, thời kỳ gắn với các nghị quyết chuyên đề, kết luận, chỉ thị, quy định, quy chế phối hợp…
Hai là, coi trọng công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Kết hợp nghiên cứu của cơ quan với tổng hợp, chặt lọc, kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơ quan liên quan; huy động sự tham vấn chính sách, sự tham gia tích cực của chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình xây dựng đề án, sơ kết, tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực nội chính. Thường xuyên đúc kết kinh nghiệm, bổ sung bài học hay, cách làm mới; không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận,…
Ba là, chú trọng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ giữa Ban Nội chính Trung ương với các cơ quan Đảng Trung ương, các cơ quan nội chính Trung ương và với các cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở quy định của Đảng, Nhà nước; bảo đảm “đúng vai, thuộc bài”, thông suốt.
Bốn là, kịp thời kiện toàn tổ chức bộ máy, thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về lĩnh vực nội chính; coi trọng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, trau dồi bản lĩnh, trí tuệ, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và tinh thần nhiệt huyết, sự cống hiến hết mình trong công tác.
Những vấn đề đặt ra từ công tác tham mưu theo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực nội chính là:
Thứ nhất, nhiệm vụ tham mưu trong lĩnh vực nội chính ngày càng phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải ngang tầm nhiệm vụ. Tham mưu luôn đòi hỏi vừa đúng chủ trương, đường lối, sát thực tiễn, có lý luận và kịp thời; khối lượng công việc phải tham mưu ngày càng lớn, nên áp lực lớn đối với cán bộ, công chức làm công tác tham mưu.
Thứ hai, lĩnh vực nội chính Đảng rộng, gồm cả nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp, nên để tham mưu có chất lượng về nội dung thì còn phải tham mưu về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này. Đây là vấn đề hết sức khó khăn, nhất là trong bối cảnh nhiều vấn đề mới phát sinh, chưa có trong tiền lệ… Trong khi đó, còn một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn nhưng chưa có cách tiếp cận phù hợp để giải quyết, như: hoàn thiện mô hình cơ quan, đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vấn đề thu nhập thực tế của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp; việc xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc kiểm soát tài sản, thu nhập (vấn đề xử lý hành vi làm giàu bất chính); vấn đề kiểm soát tài sản toàn xã hội; việc xử lý những vụ án, vụ việc có yếu tố nước ngoài; thu hồi tài sản tẩu tán ra nước ngoài...
Thứ ba, điều kiện làm việc, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tham mưu chưa bảo đảm, mâu thuẫn với yêu cầu phải dự báo đúng, tổng hợp nhanh, tham mưu sát.
Thứ tư, thực tế cho thấy, hầu hết những điểm nóng về khiếu nại, tố cáo, vụ án nghiêm trọng được phát hiện, xử lý trong những năm gần đây đều ít nhiều có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước; có sự cấu kết, móc ngoặc giữa một số tổ chức, cá nhân có thẩm quyền với doanh nghiệp để trục lợi, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Điều này đòi hỏi phải nhận diện kịp thời các biểu hiện tiêu cực nảy sinh trong mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, giữa doanh nghiệp, người dân và người có chức vụ, quyền hạn để đề ra các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phù hợp và kịp thời.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp, quan điểm, nguyên tắc đột phá để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác này; đã có nhiều tổng kết thực tiễn để đánh giá, rút kinh nghiệm về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu, xây dựng lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Chưa hình thành được hệ thống lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đồng bộ, đặc sắc Việt Nam, trong khi đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là lĩnh vực công tác mang đậm tính khoa học, tính tư tưởng và tính lý luận rất cao. Để giải quyết căn bản vấn đề tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, cần xây dựng lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dựa trên cơ sở nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh đầy đủ, sâu sắc những nét riêng, đặc thù trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam.
3. Phương hướng giải pháp nâng cao chất lượng tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp
Một là, nội dung tham mưu về lĩnh vực nội chính
Tiếp tục tham mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách lớn về công tác nội chính. Phát huy tốt hơn nữa vai trò nòng cốt bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để xây dựng và phát triển đất nước
Tiếp tục tham mưu cho Đảng lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm đạt mục tiêu “không muốn, không thể, không dám, không cần tham nhũng, tiêu cực”. Xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trở thành nếp sống văn hóa trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân. Hoàn thiện các quy định, quy trình, quy chế quản lý nội bộ, các nguyên tắc, quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; các quy định về trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Đổi mới cơ chế bảo vệ, khuyến khích người tố cáo, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Kiểm soát hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng để chuyển mạnh và thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiến tới kiểm soát tài sản toàn xã hội. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng cơ chế, chính sách, luật pháp.
Kiên quyết làm rõ và xử lý nghiêm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc tham mưu, ban hành chính sách, pháp luật có thiếu sót, sơ hở, bất cập, bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu, xây dựng thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. Tiếp tục mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ra khu vực ngoài nhà nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tăng cường truy bắt, dẫn độ những đối tượng bỏ trốn và thu hồi tối đa tài sản tẩu tán ra nước ngoài.
Tiếp tục tham mưu đẩy mạnh cải cách tư pháp. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.
Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử. Xác định thẩm quyền của toà án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp.
Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.
Hai là, kiện toàn tổ chức cơ quan Ban Nội chính Trung ương
Tiếp tục củng cố tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương; tập trung xây dựng, điều chỉnh sáp nhập khoa học các vụ, đơn vị của Ban Nội chính Trung ương theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, vừa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, vừa bảo đảm cho việc quản lý cán bộ, công chức theo tuyến công việc.
Nghiên cứu thành lập mới Viện Đào tạo liêm chính thực hiện chức năng tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo thúc đẩy xây dựng văn hóa liêm chính trong Đảng nhằm tăng cường chức năng lãnh đạo, biện pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực.
Ba là, xây dựng lực lượng tham mưu cho Đảng về lĩnh vực nội chính thông qua các biện pháp đổi mới công tác cán bộ
Hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình công tác cán bộ nội chính theo hướng khoa học, chặt chẽ, dân chủ, minh bạch, khách quan, công tâm. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, quản lý biên chế, cán bộ, công chức, viên chức ngành nội chính Đảng. Đổi mới việc thu hút cán bộ về làm việc tại Ban Nội chính Trung ương và các ban nội chính địa phương; chú trọng công tác điều chuyển, biệt phái cán bộ từ cơ quan nghiên cứu, cơ quan trong khối nội chính và cán bộ giữa các vụ của Ban Nội chính Trung ương và giữa các Ban Nội chính địa phương với Ban Nội chính Trung ương.
Bốn là, tăng cường cơ chế bảo đảm cho công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực nội chính
Củng cố, kiện toàn, đổi mới tổ chức hệ thống đầu mối quản lý nghiên cứu khoa học khối đảng, đoàn thể từ Trung ương tới địa phương (chuyên trách hoặc kiêm nhiệm tùy theo yêu cầu nhiệm vụ và quy mô tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực quản lý và nghiên cứu khoa học chuyên trách hoặc kiêm nhiệm). Đầu tư xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận bài bản, nhất quán, xuyên suốt trong các cơ quan đảng, đoàn thể ở Trung ương đủ về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức; khắc phục tình trạng dễ làm, khó bỏ, khi quan tâm, khi buông lỏng và phụ thuộc vào ý chí của người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở mỗi thời kỳ.
Hoạch định và xây dựng nguồn kinh phí độc lập, lâu dài của các cơ quan Đảng phục vụ nghiên cứu lý luận chính trị, phát triển đường lối, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng về lĩnh vực nội chính.
Xây dựng và ban hành chính sách phù hợp đối với đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực nội chính; khuyến khích, ưu đãi trong nghiên cứu những đề tài khó, giải quyết những vấn đề cơ bản về lĩnh vực nội chính của Đảng, của đất nước, tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức ngành nội chính yên tâm nghiên cứu, cống hiến.
_________________
Ngày nhận bài: 10-5-2024; Ngày bình duyệt: 13-6-2024; Ngày duyệt đăng: 19-6-2024.
(1) Gồm: Quyết định số 48-QĐ/TW ngày 25-9-1979 của Ban Bí thư; Quyết định số 38/QĐ-TW ngày 06-01-1988 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 17-QĐ/TW ngày 23-12-1991 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 40-QĐ/TW ngày 15-7-2002 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 159-QĐ/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 103-QĐ/TW ngày 28-11-2017 của Bộ Chính trị về việc chuyển Văn phòng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương về Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 216-QĐ/TW ngày 02-01-2020 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương.
(2) Gồm: Quyết định số 79-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng; Quyết định số 13/2007/QĐ-TTg ngày 24-01-2007 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức và quy chế hoạt động của Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; Quyết định số 04-QĐ/CCTP ngày 17-11-2011 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (nhiệm kỳ 2011-2016).
(3) Kế hoạch số 107-KH/BNCTW ngày 18-01-2023 của Ban Nội chính Trung ương. Điển hình là xây dựng Đề án Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, tham mưu Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 84-KL/TW ngày 29-7-2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020; Đề án về tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; xây dựng Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và cơ quan tư pháp; xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.