(LLCT) - Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, việc bảo đảm tính dân chủ vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thời gian qua, hệ thống pháp luật nước ta không ngừng được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng, tập trung vào các yêu cầu và mục tiêu quan trọng, trong đó có bảo đảm tính dân chủ trong pháp luật, Luật Đất đai năm 2024 là một minh chứng rõ nét cho nội dung này.
ThS PHAN THỊ THÚY HIỂN
Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi
1. Mở đầu
Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong 80 năm qua, nhất là gần 40 năm đổi mới, luôn là minh chứng sống động về bảo đảm yêu cầu dân chủ trong nội dung, quy trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 230 đạo luật; hơn 1.000 nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; hơn 7.000 thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ; văn bản của các cấp chính quyền địa phương là khoảng 27.000 và các văn bản của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước(1), bao phủ cơ bản toàn diện các lĩnh vực, đồng thời phản ánh đầy đủ, kịp thời ý chí của toàn dân.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định cụ thể quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trong đó bảo đảm các chủ thể có quyền và được tạo điều kiện tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Việc lấy ý kiến trong công tác xây dựng pháp luật thời gian qua được thực hiện nghiêm túc, tạo thành diễn đàn sinh hoạt chính trị sâu rộng, trong đó, Luật Đất đai năm 2024 là một hình mẫu sinh động.
2. Nội dung
2.1. Yêu cầu về tính dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp. Ở khía cạnh dân chủ của pháp luật, các nhà kinh điển mácxít nhấn mạnh đến vai trò quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật, bảo đảm tất cả các chủ thể phải được pháp luật điều chỉnh và loại trừ mọi sự tùy tiện. C.Mác khẳng định: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ”(2) và “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi pháp luật. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”(3).
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, áp dụng vào thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn hết sức quan trọng về công tác xây dựng pháp luật, yêu cầu về tính dân chủ thể hiện sâu sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng pháp luật. Người nhấn mạnh: “Luật pháp của chúng ta hiện nay là ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng”(4) và phân tích: “luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải là ý chí chung của toàn thể nhân dân ta. Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự xã hội ấy chỉ có lợi cho thực dân, phong kiến, không phải có lợi cho toàn thể nhân dân đâu… Phong kiến đặt ra luật pháp để trị nông dân. Tư bản đặt ra luật pháp để trị công nhân và nhân dân lao động”(5).
Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân dân, trong quá trình xây dựng Hiến pháp, Người yêu cầu: “Bản Hiến pháp của chúng ta sẽ thảo ra… phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”(6).
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người chỉ rõ: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”(7).
Đối với Đảng ta, khi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, thì xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - công cụ để quản lý nhà nước và xã hội - không thể nằm ngoài ranh giới đó. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhấn mạnh “quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức”(8).
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã làm rõ hơn yêu cầu về tính dân chủ trong pháp luật thông qua các quan điểm: (i) Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; (ii) Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật; (iii) Thể chế hóa nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử, bảo đảm để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành pháp luật của các cơ quan, công chức nhà nước; (iv) Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách, pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Trước những yêu cầu của tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(9). Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” được ban hành, trong Chiến lược pháp luật đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 có “hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững”. Một trọng tâm trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là “hoàn thiện hệ thống pháp luật” với nhiệm vụ, giải pháp cụ thể “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”.
Như vậy, đến Nghị quyết 27, cụm từ “pháp luật dân chủ” được ghi nhận, khẳng định yêu cầu về tính dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật là khách quan và cấp thiết. Đây cũng là một bước phát triển, hoàn thiện về lý luận xây dựng pháp luật của Việt Nam. Yêu cầu về tính dân chủ trong pháp luật thể hiện ở ba phương diện cơ bản:
Một là, về nội dung, pháp luật phải phản ánh ý chí của toàn thể nhân dân, gồm: (i) pháp luật thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Hiến định; (ii) các quy định của pháp luật phải bao quát ý chí, mục tiêu, khát vọng, lý tưởng, mong muốn của nhân dân; (iii) loại trừ tiêu cực, cài cắm lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật.
Hai là, về quy trình xây dựng và ban hành, pháp luật phải được xây dựng bằng con đường dân chủ, gồm: (i) luật hóa quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trong đó bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng pháp luật; (ii) tổ chức thực hiện tốt quy trình đó.
Ba là, về tổ chức thi hành pháp luật, phải bảo đảm dân chủ trong tổ chức thi hành pháp luật như công khai, minh bạch, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân.
2.2. Luật Đất đai năm 2024 - hình mẫu của việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Một là, quá trình chỉ đạo, xây dựng Luật Đất đai năm 2024 bảo đảm thống nhất, dân chủ
Luật Đất đai ra đời hơn 30 năm, với 5 lần sửa đổi, bổ sung và gần đây là vào năm 2013. Sau hơn 10 năm thực thi, bên cạnh những kết quả đạt được, đã có nhiều bất cập, chồng chéo so với các luật khác, dẫn đến khó khăn trong quá trình tổ chức, thực hiện trong thực tiễn.
Tháng 9-2022, phiên họp chuyên đề pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn mạnh: “việc xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là nhiệm vụ trọng tâm của công tác pháp luật trong nhiệm kỳ QH khóa XV”(10), “là đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tác động đến mọi mặt của đời sống, kinh tế, xã hội đất nước và có tác động sâu sắc tới việc thực thi các chính sách, các quy định trong rất nhiều đạo luật khác”(11).
Thực hiện chỉ đạo đó, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo tổng kết thi hành và xây dựng dự án Luật Đất đai (sửa đổi)(12). Đã có 22 bộ, ngành trung ương và 63/63 địa phương gửi báo cáo tổng kết. Để bảo đảm tính thống nhất của Luật Đất đai với các luật, bộ luật có liên quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chủ động rà soát, đánh giá hơn 112 luật, bộ luật; phối hợp tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, các buổi làm việc với cơ quan, tổ chức có liên quan, với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, với chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế. Đặc biệt, đã tổ chức hội thảo 3 miền để lấy ý kiến các địa phương.
Ngay sau khi Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 về “tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới vào dự thảo Luật; tổ chức họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập, báo cáo Ban chỉ đạo, báo cáo Ban cán sự đảng; gửi dự thảo lấy ý kiến của các bộ, ngành địa phương, Mặt trận Tổ quốc, VCCI, đăng dự thảo lên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Tài nguyên và Môi trường để lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động…
Trước khi thông qua, dự thảo Luật Đất đai năm 2024 đã được Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có 7 phiên họp cho ý kiến về dự án Luật, Chính phủ đã tổ chức nhiều phiên họp chuyên đề để hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện dự thảo đã có sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, tổ chức, chuyên gia trong và ngoài nước. Sáng ngày 18-01-2024, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội Việt Nam chính thức thông qua Luật Đất đai (sửa đổi).
Có thể thấy, trên cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của Luật Đất đai, quá trình xây dựng và thông qua Luật đã được chỉ đạo quyết liệt, bảo đảm thông suốt, phát huy cao độ dân chủ và trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
Hai là, nội dung Luật Đất đai năm 2024 thể chế hóa kịp thời và đầy đủ những chủ trương của Đảng, phản ánh ý chí toàn dân, hiện thực hóa các mục tiêu và khát vọng, khơi thông, phát huy cao độ và hiệu quả các nguồn lực phát triển đất nước
Cơ sở chính trị của Luật Đất đai năm 2024 được định hướng trong các văn kiện, nghị quyết, kết luận của Đảng, nhất là trong Văn kiện Đại hội XIII và trực tiếp hơn cả là Nghị quyết 18 với 5 quan điểm; 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể; 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn, bảo đảm mọi đề xuất, quy định đưa vào dự án luật phải được đánh giá rất kỹ lưỡng, trên tinh thần lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của cộng đồng, lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người dân, quyền và lợi ích hợp pháp của từng chủ thể.
Với 16 chương, 260 điều, Luật Đất đai năm 2024 đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những chủ trương, quan điểm của Đảng, đồng thời phản ánh ý chí của toàn dân trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, tài sản, nguồn lực phát triển đất nước, tiếp tục khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (Điều 12 Luật Đất đai năm 2024) và có các điểm mới quan trọng(13):
Thứ nhất, liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy trình, nội dung, phương thức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được đổi mới, tăng cường công khai, minh bạch; người dân được lấy ý kiến công tác lập quy hoạch sử dụng đất. Việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất trong các khu vực quy hoạch cũng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Luật cũng yêu cầu phải có sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa các quy hoạch quốc gia, quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất. Các địa phương được phân cấp trong xác định các chỉ tiêu quy hoạch để chủ động phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. 31 trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng được quy định với nhiều điểm mới về trình tự, thủ tục, bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, kịp thời và đúng quy định của pháp luật, vì lợi ích chung của cộng đồng và vì sự phát triển bền vững.
Thứ ba, về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng. Các trường hợp giao đất qua đấu giá, đấu thầu hoặc không qua đấu giá, đấu thầu; cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê; điều kiện, thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được Luật quy định cụ thể, theo đúng tinh thần Nghị quyết 18. Trong đó, phân cấp cho hội đồng nhân dân cấp tỉnh thẩm quyền chấp thuận việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên; căn cứ quy hoạch sử dụng đất để cho phép hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất.
Thứ tư, về phân cấp, phân quyền. Luật đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thống nhất quản lý theo hướng nâng cao trách nhiệm của địa phương và kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ của Trung ương, giảm đầu mối, giảm trung gian, gắn với cải cách hành chính, giảm phiền hà, tiêu cực.
Thứ năm, về chính sách hỗ trợ đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số. Luật quy định các chính sách bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng; giao đất, cho thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất; bảo đảm quỹ đất để thực hiện chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Luật còn hạn chế một số quyền của người sử dụng đất đối với các trường hợp được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo chính sách hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số và quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; nguồn lực để thực hiện chính sách.
Luật Đất đai năm 2024 có một số điểm nhấn quan trọng(14) là:
(i) Cho phép mở rộng “hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất” và các quy định về “tập trung đất nông nghiệp”, “tích tụ đất nông nghiệp”, tạo điều kiện để nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hóa nông sản ngày càng lớn cho sự phát triển ngành nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tác động tích cực đến cả nền kinh tế và thị trường bất động sản.
(ii) Bỏ “khung giá đất” và quy định “bảng giá đất”. Theo đó, “bảng giá đất” được xây dựng hằng năm và “bảng giá đất lần đầu” được công bố và áp dụng từ ngày 01-01-2026 và được điều chỉnh từ ngày 01-01 của năm tiếp theo, giúp cho “bảng giá đất” tiệm cận giá thị trường.
(iii) Trong phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất phải bảo đảm các nguyên tắc để tổ chức phát triển quỹ đất của Nhà nước sẽ trở thành nhà cung cấp quỹ đất lớn nhất trên “thị trường sơ cấp đất đai”. Thông qua việc thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất, toàn bộ “địa tô chênh lệch” sẽ thu vào ngân sách nhà nước để phục vụ lợi ích công cộng, tăng sự ủng hộ, đồng thuận của người có đất bị thu hồi và xã hội.
(iv) Ngoại trừ một số hạn chế đối với dự án nhà ở thương mại, còn lại hầu hết các dự án phát triển kinh tế - xã hội, gồm cả dự án nhà ở xã hội được quy định rất thông thoáng việc “sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất” hoặc “đang có quyền sử dụng đất”, sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi để thúc đẩy phát triển các dự án khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ, du lịch, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học, công viên, khu vui chơi giải trí…
Rõ ràng, quy định của Luật Đất đai năm 2024 đã bám rất sát chủ trương của Đảng và cuộc sống, phản ánh được hoàn toàn “Ý Đảng, lòng dân”.
Ba là, phát huy trí tuệ và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng, thông qua Luật Đất đai
Thực hiện Nghị quyết số 671/NQ-UBTVQH15 ngày 23-12-2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự án Luật Đất đai được tổ chức lấy ý kiến nhân dân từ ngày 03-01-2023 đến ngày 15-3-2023. Bộ Tài nguyên và Môi trường đăng tải trên website luatdatdai.monre.gov.vn; 63/63 địa phương đều ban hành kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Nhiều bộ, ngành mặc dù không có yêu cầu nhưng cũng ban hành kế hoạch lấy ý kiến nhân dân để triển khai trong bộ, ngành mình.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 12 hội nghị, hội thảo. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố đã tổ chức 51.153 hội nghị, hội thảo với 1.300.758 lượt ý kiến góp ý vào hầu hết các nội dung của toàn bộ dự thảo Luật(15). Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Kinh tế và các ủy ban khác của Quốc hội, các bộ, ngành, cơ quan trung ương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các viện nghiên cứu, trường đại học đã tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm, khảo sát lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý và đối tượng chịu sự tác động của dự thảo Luật.
Việc tổ chức lấy ý kiến người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được Bộ Ngoại giao triển khai với nhiều hình thức: thông qua các hội đoàn định cư ở nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài; phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức các hội thảo, tọa đàm về chính sách, pháp luật đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức hội nghị trực tuyến với hơn 30 điểm cầu đến từ 17 quốc gia và vùng lãnh thổ ở tất cả các châu lục. Có 100 lượt ý kiến góp ý của các cá nhân gửi về Bộ Ngoại giao(16).
Các cơ quan truyền thông, báo chí cũng đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến, lấy ý kiến nhân dân, mở nhiều chuyên mục trao đổi, thảo luận, phản ánh kịp thời ý kiến nhân dân, doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý... với 20.537 tin, bài. Trong đó, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 4.429 tin, bài (chiếm 21,6%); giá đất và định giá đất: 4.190 tin, bài (chiếm 20,4%); quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: 3.485 tin, bài (chiếm 20%); giao đất, cho thuê đất: 4.144 tin, bài (chiếm 20%); đất cho đồng bào dân tộc thiểu số: 3.119 tin, bài (chiếm 15,2%)(17).
Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai đã được triển khai nghiêm túc, đồng bộ, dân chủ, khoa học, công khai, minh bạch, chuyên sâu, bảo đảm thực chất và hiệu quả với nhiều hình thức đa dạng, phong phú đến tận xã, phường, thị trấn, khu dân cư, tổ dân phố, huy động được hầu hết các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các giai tầng trong xã hội tham gia, thu hút được sự quan tâm đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thực sự trở thành cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng. Các ý kiến tham gia của nhân dân đều thể hiện sự quan tâm sâu sắc, tâm huyết, trách nhiệm.
Tổng hợp lại, đã có hơn 12 triệu lượt ý kiến góp ý dự thảo Luật Đất đai, trong đó: 10.779.147 lượt ý kiến theo báo cáo của các tổ chức chính trị - xã hội (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận được 8.363.162 lượt ý kiến; Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhận được 2.348.965 lượt ý kiến…); 7.979 lượt ý kiến trên website lấy ý kiến nhân dân, 1.968 ý kiến từ Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, 10.393 lượt ý kiến theo 31 báo cáo của bộ, ngành, cơ quan trung ương, hơn 1 triệu lượt ý kiến theo 63 báo cáo của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 2.509 lượt ý kiến từ các viện nghiên cứu, trường đại học, 205 lượt ý kiến của các tổ chức, cá nhân bằng văn bản gửi trực tiếp... Các nội dung được nhân dân quan tâm tập trung góp ý gồm có: bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (1.227.238 lượt ý kiến); giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (1.064.464 lượt ý kiến); tài chính đất đai, giá đất (1.035.394 lượt ý kiến); quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (1.008.494 lượt ý kiến)(18)…
Việc tiếp thu ý kiến của nhân dân được thực hiện ngay trong quá trình lấy ý kiến. Chẳng hạn như đã điều chỉnh quy định theo hướng Thủ tướng Chính phủ ban hành khung chính sách về hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đó UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Hay đã bổ sung quy định người sử dụng đất đang được Nhà nước cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê được lựa chọn chuyển sang thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm và tiền thuê đất đã nộp được khấu trừ vào tiền thuê đất hàng năm phải nộp. Chỉnh lý theo hướng không quy định các nội dung liên quan đến quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh tại Chương V mà sửa đổi, bổ sung các quy định này trong Luật Quy hoạch.
Sửa đổi toàn bộ nội dung của Điều 75 theo hướng Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhằm phát huy nguồn lực đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và bảo tồn di sản văn hóa.
Về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đã luật hóa một số quy định được thực tế chứng minh là phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất thu hồi, tạo sự đồng thuận, giảm khiếu kiện; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương trong tổ chức thực thi. Qua tiếp thu cũng làm rõ nguyên tắc định giá đất, giá đất thị trường, căn cứ định giá đất, thông tin đầu vào để xác định giá đất, các phương pháp định giá đất; bổ sung quy định về tư vấn thẩm định giá đất; bổ sung thời hạn sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; quy định thời hạn sử dụng đất đối với các trường hợp dự án thời hạn hoạt động trên 50 năm theo quy định của Luật Đầu tư; thời hạn cho thuê đất công ích là 10 năm và nhiều vấn đề khác.
Để văn bản luật rất quan trọng này sớm đi vào cuộc sống, lan tỏa những tác động tích cực tới phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ đã đề xuất Luật Đất đai và một số luật liên quan sẽ có hiệu lực sớm từ ngày 01-8-2024 thay vì từ ngày 01-01-2025 và được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 29-6-2024.
Trong quá trình chuẩn bị cho Luật Đất đai, Chính phủ cũng đã chuẩn bị tinh thần triển khai sớm nhất để đưa Luật vào cuộc sống, dự kiến ban hành 15 nghị định, thông tư quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành. Trong Công điện số 109/CĐ-TTg ngày 22-10-2024, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu trước ngày 31-10-2024, các địa phương phải ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết Luật Đất đai (tổng cộng 20 nội dung).
3. Kết luận
Quá trình chuẩn bị cho Luật Đất đai từ lúc đề xuất cho đến chính thức đi vào đời sống là minh chứng sống động cho yêu cầu dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là minh chứng sinh động nhất để đánh giá năng lực xây dựng pháp luật của Chính phủ, Quốc hội và các tổ chức, cơ quan hữu quan; đánh giá năng lực thể chế hóa chủ trương của Đảng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực kiến tạo phát triển; năng lực tháo gỡ vướng mắc, khó khăn.
Quá trình xây dựng và thông qua Luật Đất đai còn là thành quả của quá trình phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học, từ sớm, từ xa, với nỗ lực và quyết tâm rất cao của Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan; huy động mọi nguồn lực với tinh thần thực sự cầu thị, lắng nghe, dân chủ; tranh thủ tối đa trí tuệ, đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp, cử tri và nhân dân cả nước.
_________________
Ngày nhận: 19-11-2024 ; Ngày bình duyệt: 27-11-2024; Ngày duyệt đăng: 28-9-2025.
Email tác giả: phanhithuy@gmail.com
(1) Đồng Ngọc Ba: Cần làm tốt việc kiểm soát các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, https://quochoi.vn/, ngày 24-7-2023.
(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.202, 350.
(4) (5), (7) Hội nghị học tập tư pháp Trung ương (1950) và bức Điện văn gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, https://moj.gov.vn/.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 510-511.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.175.
(10), (11) Sửa đổi Luật Đất đai: Chỉ thể chế hóa những vấn đề đã chín, đã rõ, https://quochoi.vn, ngày 23-9-2022.
(12) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 1188/QĐ-TTg ngày 05-8-2020 Về việc thành lập Ban Chỉ đạo tổng kết thi hành Luật Đất đai và xây dựng Dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
(13) Những điểm mới quan trọng trong Luật Đất đai (sửa đổi), http://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 20-2-2024.
(14) 08 “điểm nhấn” trong Luật Đất đai (sửa đổi) 2024 đã “thể chế hóa” rõ nét Nghị quyết số 18-NQ/TW của Trung ương, https://quochoi.vn, ngày 19-1-2024.
(15), (16), (17), (18) Tổng hợp kết quả lấy ý kiến nhân dân và tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi), https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 9-6-2023.