Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

30/06/2023 14:22

(LLCT) - Nghị quyết số 37 - NQ/TW ngày 01-7-2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, nhằm khai thác, phát huy lợi thế của vùng, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới... Bài viết tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế sau 15 năm Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết số 37, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm để vận dụng thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị khóa XIII trong thời gian tới.

Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

Hòa Bình ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế xanh - Ảnh: baochinhphu.vn

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo

Hòa Bình là tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ, trong quy hoạch vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, có diện tích tự nhiên 4.590,3 km2, gồm 10 huyện, thành phố, với 151 xã, phường, thị trấn. Dân số trên 86 vạn người, có 07 dân tộc chủ yếu; đồng bào dân tộc chiếm 74,14%, trong đó dân tộc Mường chiếm trên 63%. Đảng bộ tỉnh Hòa Bình có 13 đảng bộ trực thuộc với 551 tổ chức cơ sở đảng và gần 67 nghìn đảng viên.

Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01-7-2004 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 37); Kết luận số 26-KL/TW ngày 02-8-2012 (sau đây gọi tắt là Kết luận số 26) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, Tỉnh ủy Hòa Bình đã khẩn trương tổ chức hội nghị triển khai, đồng thời chỉ đạo cấp ủy đảng và chính quyền các cấp tổ chức quán triệt nghiêm túc, sâu sắc Nghị quyết, Kết luận đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; ban hành Chương trình hành động số 389-CTr/TU ngày 25-01-2005 thực hiện Nghị quyết số 37; Chương trình hành động số 25-CTr/TU ngày 04-6-2014 thực hiện Kết luận số 26. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình đã Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 37, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban, một đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh và đồng chí Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư làm Phó Trưởng ban, các ủy viên gồm các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Giám đốc sở, Thủ trưởng các ban, ngành.

Để cụ thể hóa các nội dung Nghị quyết số 37 và Kết luận số 26 của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành rà soát, điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh đến năm 2020; xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình đến năm 2020 và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 917/QĐ-TTg ngày 11-6-2013; xây dựng Đề án ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân sông Đà, tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2009 - 2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1588/QĐ-TTg ngày 09-10-2009 và phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 19-01-2015. Rà soát điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, quy hoạch khu du lịch quốc gia Hồ Hòa Bình, quy hoạt vùng vật liệu sản xuất xi măng… trình và đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tỉnh ủy đã ban hành nhiều Nghị quyết và thông qua nhiều đề án về phát triển kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư, phát triển vùng động lực, Đề án 36 xóm đặc biệt khó khăn, phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, nông, lâm, thủy sản, khu cụm công nghiệp, giáo dục - đào tạo, văn hóa, xã hội, tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh… Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch cụ thể cho từng năm để triển khai thực hiện.

Xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nhanh và bền vững như: Cơ chế thu hút đầu tư; đề án sản xuất giống cây trồng; đề án cứng hóa đường giao thông nông thôn; đề án ổn định dân cư phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân Sông Đà... Đồng thời, xây dựng bộ phận theo dõi, nắm bắt tình hình khu vực miền núi để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu đã đề ra ở mức cao nhất.

2. Những thành tựu nổi bật(1)

Trên lĩnh vực kinh tế

Tốc độ tăng trưởng GRDP giai đoạn 2004 - 2005 đạt 1,29%, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 6,3%; giai đoạn 2011 - 2015 đạt 5,71%; giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,31%; tính cả giai đoạn 2004 - 2020 đạt 5,54%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản.

GRDP bình quân đầu người tăng từ 7,6 triệu đồng năm 2004 lên 60,3 triệu đồng năm 2020, tăng gấp 7,93 lần so với năm 2004. Năm 2020, tổng đầu tư toàn xã hội cao gấp 7,99 lần, thu ngân sách nhà nước gấp 12,8 lần, kim ngạch xuất khẩu cao gấp 41,3 lần.

Trong thời gian qua, Hòa Bình phát triển một số ngành, sản phẩm chủ lực, tạo đà tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới như: thiết bị điện tử, thấu kính, may mặc, giày da, chế biến gỗ, trồng cam, bưởi... Đang từng bước hình thành một số sản phẩm mới, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

Thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp đạt kết quả khá, giai đoạn 2004 - 2020 có 3.076 doanh nghiệp thành lập mới, 557 dự án đầu tư vào tỉnh. Đến hết năm 2020 có 3.770 doanh nghiệp, 594 dự án, trong đó có 41 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký 595,4 triệu USD.

Đời sống nhân dân được cải thiện; an ninh lương thực được bảo đảm, tỷ lệ hộ nghèo đến hết năm 2020 còn 8,6%; 58 xã, 02 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 94,7%; tỷ lệ che phủ rừng 51,5%.

So với mục tiêu Nghị quyết số 37, Kết luận số 26 mà tỉnh đã cụ thể hóa tại Chương trình hành động số 389-CTr/TU ngày 25-01-2005 và Chương trình hành động số 25-CTr/TU ngày 04-6-2014, nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội như cơ cấu kinh tế, kim ngạch xuất nhập, khẩu, thu ngân sách nhà nước, tỷ lệ giảm nghèo đã đạt mục tiêu đến năm 2020.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội

Công tác bảo tồn và phát triển tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc ngày càng được quan tâm, góp phần nâng cao văn hóa trong hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và sinh hoạt của nhân dân, tăng mức hưởng thụ văn hóa thông tin cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Các hoạt động văn hóa cơ sở được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai rộng khắp. Đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 79% gia đình, 68% làng, bản, tổ dân phố và 89% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn văn hóa; toàn tỉnh có 109 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, đạt tỷ lệ 72%.Phong trào thể dục, thể thao chuyển biến tích cực, góp phần duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân.

Đến cuối năm 2020, toàn tỉnh có 541 đơn vị, trường học; tất cả các xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều có trường, lớp từ mầm non đến trung học cơ sở. Chất lượng giáo dục và đào tạo có chuyển biến rõ nét. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công nhận tỉnh Hòa Bình đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi(2), đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2 và đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

Mạng lưới y tế được củng cố, kiện toàn theo hướng thu gọn đầu mối, từ 49 đơn vị xuống còn 18 đơn vị trực thuộc Sở Y tế(3). Công tác phòng, khám chữa bệnh được quan tâm thường xuyên. Công tác y tế dự phòng được tăng cường; đã triển khai toàn diện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Trung ương, không để bị động, bất ngờ.

Công tác dân số được chuyển trọng tâm từ công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, chú trọng vào chất lượng dân số. Kiểm soát tốt bệnh tan máu bẩm sinh, giảm tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trung bình hàng năm dưới 1%.

Công tác đào tạo, dạy nghề ngày càng được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất. Đến năm 2020, toàn tỉnh có 39 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng đều qua các năm, từ 9% năm 2004 lên 56% năm 2020, trong đó lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 22,64%, tỷ lệ có việc làm sau đào tạo đạt từ 80% đến 90%, đặc biệt đối với ngành nghề đào tạo gắn với doanh nghiệp thì tỷ lệ có việc sau đào tạo đạt 100%.

Công tác giảm nghèo đạt được những kết quả quan trọng. Trong giai đoạn 2006-2010, mức giảm trung bình 3,46%/năm (từ 31,31% năm 2005 còn 14% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010); giai đoạn 2011-2015, mức giảm trung bình 3,85%/năm (từ 31,51% năm 2010 còn 12,26% năm 2015); giai đoạn 2016-2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020), tỷ lệ giảm nghèo bình quân đạt 3,16%, đến hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 8,6%.

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Các lực lượng có liên quan đã chủ động phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, xử lý có hiệu quả các tình huống xảy ra, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tình hình an ninh trật tự ở các vùng dân tộc thiểu số nhìn chung ổn định, không có điểm nóng liên quan đến tôn giáo xảy ra trên địa bàn.

Xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nhanh và bền vững như: Cơ chế thu hút đầu tư; đề án sản xuất giống cây trồng; đề án cứng hóa đường giao thông nông thôn; đề án ổn định dân cư phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân Sông Đà... 

3. Những hạn chế, yếu kém

Mặc dù kinh tế đạt tốc độ tăng khá nhưng quy mô kinh tế còn nhỏ, tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 chỉ bằng 0,82% GDP của cả nước. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo đúng hướng nhưng còn chậm. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các tiểu vùng, trong đó đặc biệt là việc phân bố sản xuất công nghiệp giữa các địa phương chưa đồng đều; có tới trên 65% giá trị sản xuất công nghiệp tập trung ở huyện Lương Sơn và thành phố Hòa Bình. Tốc độ phát triển doanh nghiệp còn chậm, quy mô doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, ít doanh nghiệp quy mô lớn, có công nghệ cao; thiếu sự liên kết và mở rộng thị trường.

Việc huy động vốn đầu tư trên địa bàn còn hạn chế; đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn, tiềm năng nhưng quá trình chuẩn bị đầu tư còn quá chậm. Còn nhiều dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư, nhưng triển khai thực hiện chậm, chưa được xử lý triệt để. Chưa khai thác được thế mạnh của tỉnh Vùng Thủ đô, tiếp giáp với Hà Nội và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, thiếu đồng bộ, kết nối kém, nhất là giao thông đối ngoại, giao thông nông thôn cấp hạng kỹ thuật thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Năng suất lao động xã hội thấp; cơ cấu lao động chuyển dịch chậm hơn so với tốc độ chuyển dịch kinh tế, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp còn cao; tỷ lệ hộ nghèo cao hơn bình quân chung của cả nước, hộ cận nghèo tăng, nguy cơ tái nghèo rất lớn.

Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều vướng mắc. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn nhiều phức tạp; tai nạn giao thông, tệ nạn ma túy,... còn xảy ra.

Những hạn chế, yếu kém trên chủ yếu bắt nguồn từ một số nguyên nhân như: Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; vốn đầu tư công được bố trí hằng năm và cả giai đoạn thấp so với nhu cầu, một số chương trình, dự án phải kéo dài thời gian thực hiện, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả đầu tư.

Với đặc thù gần một nửa diện tích của tỉnh là địa hình hiểm trở, đồi núi cao khiến vùng này khó có thể phát triển sản xuất nông nghiệp đại trà, cũng như các khu công nghiệp tập trung quy mô lớn; quy mô kinh tế nhỏ, tiềm lực nội tỉnh còn thấp; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu; kết cấu hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ; kinh tế của tỉnh còn phụ thuộc chủ yếu vào lao động và tài nguyên. Cùng với đó, với tỷ lệ trên 70% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó một phần không nhỏ sống ở vùng sâu, vùng xa với tập quán sản xuất lạc hậu, tư duy, tâm lý sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận khoa học - kỹ thuật và kinh tế thị trường - sản xuất hàng hóa.

4. Bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị giai đoạn 2005-2020 có thể rút ra một số kinh nghiệm:

Một làcông tác tuyên truyền, giáo dục phải đi trước mở đường, nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Bởi nhận thức là khởi đầu của mọi hành động. Đảng chỉ có thể phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân khi họ nhìn thấy lợi ích của họ trong đường lối, chủ trương của Đảng. Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị ra đời nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các lợi thế của vùng, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới...Đó cũng chính là cơ sở nền tảng để triển khai thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi người và cho toàn vùng. Muốn vậy, trước hết phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm hơn 70% dân số của tỉnh Hòa Bình). Công tác tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, có kế hoạch, với hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng.

Hai làcông tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết và sáng tạo. Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị được hoạch định trên cơ sở đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 do Đại hội IX của Đảng (4-2001) thông qua, qua khảo sát thực tiễn các tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; có giá trị định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của toàn vùng trong giai đoạn 2004 - 2010 và những năm tiếp theo. Mỗi địa phương trong vùng tuy có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau, nhưng cũng có những đặc điểm, điều kiện riêng. Do vậy, khi hoạch định chủ trương phải luôn quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Trung ương Đảng, bám sát thực tiễn của địa phương để đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp. Quá trình chỉ đạo, phải coi trọng tính dự báo, thường xuyên theo dõi, bám sát sự vận động, biến đổi của thực tiễn, kịp thời xử lý đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên trì, kiên quyết thực hiện thắng lợi các chương trình, mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Chống chủ quan duy ý chí; chống bảo thủ trì trệ.

Ba làkết hợp chặt chẽ giữa phát huy sức mạnh nội lực với tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Hòa Bình là địa phương có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ. Nhu cầu đầu tư rất lớn trong khi đây cũng là nơi có địa hình miền núi rộng, tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật... còn nhiều hạn chế. Để hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, trước hết, cần có chủ trương, chính sách đúng đắn để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đồng thời, năng động, nhạy bén tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn của Trung ương, sự liên kết phối hợp của các địa phương trong vùng, sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các công ty trong và ngoài nước... Qua đó khắc phục được những hạn chế về vấn đề này trong thực hiện Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị.

Bốn là, coi trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh, thực hiện công bằng xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kinh tế, quốc phòng, an ninh và xã hội là những lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề để tăng cường quốc phòng, an ninh và giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân. Sự kết hợp đó phải được thực hiện thống nhất cả trong hoạch định chủ trương, chiến lược, trong từng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và phải được thực hiện thông suốt từ tỉnh đến cơ sở.

Những kinh nghiệm trên được đúc kết từ thực tiễn 15 năm Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị; rất cần được nghiên cứu, vận dụng nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10-2-2022của Bộ Chính trị khóa XIII về “Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

_________________

Ngày nhận: 17-2-2023; Ngày bình duyệt: 20-2-2023; Ngày duyệt đăng: 30-6-2023

(1) Các số liệu được tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, Tỉnh ủy Hòa Bình, ngày 21 tháng 7 năm 2021.

(2) Hòa Bình là tỉnh miền núi đầu tiên và là tỉnh thứ hai trong cả nước được công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

(3) Gồm 02 bệnh viện tuyến tỉnh; 11 Trung tâm Y tế cấp huyện, 01 Trường Trung cấp y, 02 chi cục, 04 Trung tâm trực thuộc tuyến tỉnh.

PGS, TS NGUYỄN VĂN SỰ

NGUYỄN HOÀNG ANH

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
    POWERED BY