(LLCT) - Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân khẳng định: trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Quan điểm này thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, việc đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái này cần được tiến hành bằng những lập luận khoa học, cơ sở lý luận vững chắc và chứng cứ thực tiễn thuyết phục.
TS NGUYỄN THỊ HOA
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Với nỗ lực và quyết tâm hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, dân giàu, nước mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và chủ động đổi mới tư duy phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Quá trình đổi mới tư duy đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đất nước trong bối cảnh cần nhiều đột phá để hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới. Một trong những đổi mới về kinh tế mang tính cách mạng từ Đại hội VI đến nay là quá trình hoàn thiện đường lối của Đảng về vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”(1). Đây là bước đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách phát triển kinh tế, góp phần giải phóng mọi nguồn lực để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải mọi sự đột phá trong tư duy đều dễ dàng được chấp nhận ngay từ đầu, nhất là khi nó có sự khác biệt với các quan điểm cũ. Bởi vậy, “việc coi kinh tế tư nhân là đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng có phù hợp với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hay không” vẫn còn là vấn đề khiến một bộ phận người dân băn khoăn, trăn trở. Lợi dụng điều đó, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước ráo riết đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.
Trên không gian mạng, một số phần tử chống phá cách mạng đã khai thác vấn đề thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam để tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, sai trái. Chúng cho rằng, việc khẳng định vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tức là “từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin”, là biểu hiện của sự “bất nhất”, “mâu thuẫn” với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thậm chí, các luận điệu sai trái này còn cố tình bóp méo, cho rằng Việt Nam đang “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”, “tư nhân hóa nền kinh tế”, “thừa nhận sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”, hay “chuẩn bị đổi màu chính sách phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa”.
Các luận điệu xuyên tạc trên của các thế lực thù địch nhằm gây mất niềm tin của đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đang kiên định. Bởi vậy, cần bác bỏ các luận điệu đó bằng các lập luận khoa học và chứng cứ thực tiễn, qua đó khẳng định vai trò động lực quan trọng nhất của KTTN ở nước ta hiện nay hoàn toàn không phải là sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại, chính là nhân tố góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp, tạo nguồn lực để đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Nội dung
2.1. Khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế không mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế không mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác - Lênin
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là nguyên lý xuyên suốt của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó, lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ nào thì đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất tương ứng phù hợp; khi quan hệ sản xuất phù hợp thì sẽ tác động trở lại thúc đẩy lực lượng sản xuất, tạo động lực cho kinh tế phát triển. Trên lập trường đó, để trả lời cho câu hỏi: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên,… sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(2).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích đã khẳng định sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ và vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước như “mắt xích trung gian quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội”: “Liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước xô-viết, nền chuyên chính vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là được”(3), đó là “mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”(4). Đó có thể là “bước lùi về chủ nghĩa tư bản” như cách gọi của V.I.Lênin, nhưng lại là bước tiến về tư duy trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi lực lượng sản xuất chưa đạt tới trình độ phát triển cao, chưa đủ điều kiện để thiết lập sự chi phối hoàn toàn của quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, thì sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khách quan. Ở mỗi giai đoạn phát triển, tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất, các hình thức sở hữu khác nhau - từ tàn dư cũ, yếu tố trung gian đến những mầm mống mới của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa - sẽ cùng tồn tại, tác động, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nhằm “tạo nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết”, “tăng cường lực lượng sản xuất”, tiến tới khi quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa trở thành thống trị. Theo V.I.Lênin, trong quá trình đó, Nhà nước Xôviết giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiểm tra, kiểm soát, bảo đảm cho khu vực tư bản tư nhân không thể chi phối hoặc làm lệch hướng nền kinh tế khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xác định rõ vai trò của các thành phần kinh tế và ngày càng nhấn mạnh vị trí của kinh tế tư nhân như “một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân”, “lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng”, trước hết được xây dựng trên cơ sở lý luận biện chứng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cũng như nguyên lý lịch sử cụ thể vào điều kiện của Việt Nam.
Đồng thời, đây cũng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của các nhà kinh điển mácxít về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với đặc điểm địa kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước. Bởi lẽ, vai trò của các thành phần kinh tế ở mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử và trình độ phát triển khác nhau, sẽ có sự khác biệt, phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất và yêu cầu thực tiễn của quá trình phát triển.
Do đó, việc Đảng ta khẳng định và phát huy vai trò của kinh tế tư nhân không hề mâu thuẫn hay xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngược lại, đó chính là biểu hiện sinh động của tinh thần phát triển sáng tạo lý luận, như V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(5).
Ở Việt Nam, KTTN được hiểu là thành phần kinh tế phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do cá nhân làm chủ. Xét về quy mô sản xuất và mô hình tổ chức, KTTN bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh…(6)
Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy vai trò của kinh tế tư nhân như một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong thúc đẩy tăng trưởng, là yêu cầu tất yếu khách quan. Trên thực tế, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam còn chưa đồng đều; quy mô nền công nghiệp còn nhỏ, chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp; trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, mức độ tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn hạn chế. “Các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp thông minh phát triển chậm. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng nhỏ, liên kết với các ngành sản xuất yếu”(7); năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ khoa học và công nghệ và nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế”(8); “doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ luôn là khu vực có số lượng doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất(9)…
Thích ứng với thực trạng trên của lực lượng sản xuất, KTTN - với tư cách là một thành phần kinh tế tồn tại khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay - cần tiếp tục được coi trọng và phát huy mạnh mẽ hơn nữa, nhằm khơi dậy và phát triển tiềm năng, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới.
Khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940 nghìn doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động xã hội, qua đó tạo việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo và ổn định đời sống xã hội(10). Tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này đạt 6-8%/năm, chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu; tốc độ tăng trưởng kép trung bình trong nhóm Top 500 doanh nghiệp giai đoạn 2019-2022 đạt 26,6%(11). Trong giai đoạn 2010-2021, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng từ 44,6% lên 59,5% tổng vốn xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc bù đắp và thay thế đầu tư công, trở thành động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế(12).
Vì vậy, trong một giai đoạn nhất định của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay, KTTN được xem là một trong những yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho tăng trưởng. Trên nền tảng đó, KTTN cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tạo thành tổng lực phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa ở trình độ cao, hiện đại, hình thành tiền đề vật chất cho sự khẳng định vai trò chi phối của quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất nhiên, nguyên tắc mang tính bất biến để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa là: Nhà nước giữ vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị trường, đồng thời kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành đúng mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, quan điểm khẳng định vai trò quan trọng của KTTN không mâu thuẫn với lý luận về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Về phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”(13). Đặc trưng này được hiện thực hóa khi Việt Nam kết thúc thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng nền kinh tế phát triển cao với lực lượng sản xuất hiện đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định lộ trình phát triển cụ thể, đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp mới, sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước đang bước vào giai đoạn chuyển đổi về chất, đòi hỏi phải có những đột phá về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bởi vậy, cần phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành “lực lượng sản xuất hiện đại”, tương ứng với nó là “quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp” - tức quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
2.2. Coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất không phải là sự phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Trên một số trang mạng xã hội, một số phần tử phản động, chống đối đã cố tình xuyên tạc rằng, “kinh tế nhà nước là thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản”, do đó việc Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, coi trọng phát triển kinh tế tư nhân trong Nghị quyết số 68 chính là xóa bỏ vai trò của kinh tế nhà nước. Từ đó, chúng rêu rao rằng đó là hành động “xóa bỏ thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản”, “từ bỏ chủ nghĩa xã hội”, “vứt bỏ đường lối”, “đi ngược lại các chính sách trước đây của Đảng”, thể hiện sự “bất nhất”; thậm chí còn cho rằng quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá sản”… Những luận điệu này là sự xuyên tạc trắng trợn bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đồng thời gây hoài nghi, chia rẽ niềm tin trong xã hội đối với đường lối kinh tế của Đảng.
Thứ nhất, cần khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là quan điểm xuyên suốt, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ khi xác định mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đến mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán trong quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Quan điểm này được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (khoản 1, Điều 51): “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(14).
Đến nay, dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng cũng tiếp tục khẳng định: “Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế. Phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt kinh tế”(15).
Đặc biệt, nhằm khẳng định và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, Đảng ta luôn chú trọng đổi mới tư duy, đồng thời triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này, nhất là các doanh nghiệp nhà nước. Các chủ trương đó được thể hiện nhất quán trong nhiều nghị quyết quan trọng, như: Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3-6-2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định yêu cầu: “Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng như năng lượng, công nghệ thông tin”(16); đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ “Đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là đổi mới quản trị theo các chuẩn mực quốc tế, tăng cường hiệu quả và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước”(17).
Bởi vậy, “doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội”(18).
Thứ hai, việc xác định vai trò “một động lực quan trọng nhất” của KTTN không làm thay đổi bản chất “vai trò chủ đạo” của kinh tế nhà nước, bởi bản chất của “một động lực quan trọng nhất” và “vai trò chủ đạo” là không giống nhau
Theo Từ điển tiếng Việt, “Chủ đạo: là có tác dụng chi phối đối với toàn bộ”; “Động lực: là cái thúc đẩy, làm cho phát triển”.
Như vậy, nói đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến tính chất quyết định đối với nền kinh tế quốc gia; giữ vị trí then chốt, chi phối, điều tiết, liên kết, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác.
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(19).
Còn KTTN có vai trò là một động lực quan trọng nhất, tức là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, từ trình độ đặc trưng của lực lượng sản xuất nước ta, KTTN có đóng góp nổi trội, nhất là ở góc độ tăng trưởng; là một phương sách trọng tâm để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Tuy nhiên, để trở thành một động lực quan trọng nhất, KTTN phải có sự điều tiết, chi phối, quyết định bởi thành phần kinh tế có vai trò chủ đạo - kinh tế nhà nước, cũng như có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo đảm những mục tiêu chung của nền kinh tế quốc gia, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Cụ thể, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ngày 03-6-2017 về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định: “Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của KTTN, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính”(20). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân cũng quy định: người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm; nhưng quyền kinh doanh “có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội”(21).
Hơn nữa, việc xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế đã góp phần nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và xã hội về vai trò, vị trí của khu vực này. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước tập trung triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ nhằm khơi thông và phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của khu vực kinh tế tư nhân, qua đó, đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
2.3. Khẳng định vai trò là một động lực quan trọng nhất của kinh tế tư nhân không phải là xác nhận vai trò thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
Một số phần tử phản động đã đưa ra luận điệu cho rằng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế là sự “thừa nhận tính thống trị của kinh tế tư bản chủ nghĩa”, rằng “con đường duy nhất để Việt Nam phát triển là dựa vào kinh tế tư nhân”, hay là “sự xác nhận vai trò thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”, thậm chí là “chủ nghĩa tư bản trá hình”. Những luận điệu này mang tính áp đặt và xuyên tạc nghiêm trọng bản chất đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phủ nhận mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng.
Thứ nhất, kinh tế tư nhân không đồng nhất với tư nhân tư bản chủ nghĩa
Sở hữu tư nhân không phải được hình thành trong chủ nghĩa tư bản, mà nó đã hình thành từ cuối thời kỳ công xã nguyên thủy. Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (hay sở hữu tư bản chủ nghĩa) là “cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó”(22). Bởi vậy, các nhà kinh điển mácxít cũng khẳng định rằng: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(23).
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, KTTN, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, KTTN bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Về bản chất, sở hữu tư nhân ở nước ta không đồng nhất với sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Cụ thể: kinh tế cá thể, tiểu chủ (còn gọi là sở hữu cá thể) được hình thành từ xã hội phong kiến, gắn với nền sản xuất phong kiến, đồng thời, được phát triển trong nền kinh tế “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa, dưới sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để xây dựng những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất không làm chệch hướng mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, là phương thức hiệu quả để kiến tạo và thúc đẩy tăng trưởng bền vững, góp phần thực hiện những giá trị chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, khu vực KTTN được xác định có vai trò quan trọng, “góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh”(24).
Theo đó, bên cạnh việc triển khai các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn về thể chế và nguồn lực để bảo đảm lợi ích chính đáng cho thành phần kinh tế này, Đảng ta luôn chú trọng đến những yêu cầu đặt ra đối với khu vực KTTN trong việc thực hiện các mục tiêu và giá trị “định hướng xã hội chủ nghĩa” như công bằng, bình đẳng, dân chủ và bảo vệ môi trường. Bởi vậy, Đảng ta luôn yêu cầu việc “Đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh”(25) của khu vực kinh tế tư nhân.
Trên cơ sở đó, các tiêu chí cốt lõi để đánh giá doanh nghiệp tư nhân bao gồm: mức độ tuân thủ pháp luật; khả năng giải quyết việc làm cho người lao động; mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước và tham gia các hoạt động an sinh xã hội; cùng với việc tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và tích cực tham gia các hoạt động vì cộng đồng(26).
Trên thực tế, KTTN không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn trực tiếp tham gia hiệu quả vào bảo đảm an sinh xã hội thông qua tạo việc làm, tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội và hỗ trợ cộng đồng, người lao động trong thời kỳ khó khăn, bảo vệ môi trường sinh thái. Cụ thể, các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế thuộc khu vực KTTN đóng vai trò quan trọng góp phần tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội trên cả nước từ 9,2 triệu người năm 2010 lên hơn 19,02 triệu người năm 2024. Hằng năm, bảo hiểm xã hội có khoảng 190.000 người lao động tham gia mới, hầu hết đang làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân(27). Nhờ tỷ lệ tạo việc làm lớn, khu vực tư nhân đã góp phần giảm nghèo nhanh, hỗ trợ hơn 10 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn 2010-2020; tỷ lệ nghèo toàn quốc giảm từ 16,8% xuống còn 5% theo chuẩn 3,2 USD/ngày(28)…
3. Kết luận
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là việc khẳng định khu vực này là “một động lực quan trọng nhất”, “là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng” thể hiện nhận thức hoàn toàn đúng đắn, đồng thời là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận khoa học Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay không phải là biểu hiện “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”, mà nhằm “khơi thông mọi nguồn lực”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, qua đó tạo nên sức mạnh tổng hợp để “phát triển đất nước nhanh, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới”, “vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”(29).
_________________
Ngày nhận bài: 20-6-2025; Ngày bình duyệt: 13-8-2025; Ngày duyệt đăng: 02-11-2025.
Email tác giả: phuonghoahcma@gmail.com
(1), (10), (21), (24), (25), (26) ĐCSVN: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân , 2025, https://baochinhphu.vn.
(2), (22), (23) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.469, 616, 618.
(3), (4) V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.268, 276.
(5) V. I.Lênin: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.232.
(6), (11) Thành Nam, Duy Anh: Kinh tế tư nhân, https://hssk.tapchicongsan.org.vn.
(7) ĐCSVN: Nghị quyết 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đến năm 2030, xem tại https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn.
(8), (15), (16), (17), (29) ĐCSVN: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr.85, 33, 33, 31, 240.
(9) Theo Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2024, bình quân 2021-2022 so với bình quân giai đoạn 2016-2020 số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ tăng 21,5%, doanh nghiệp nhỏ tăng 15,8%.
(12) Đại biểu nhân dân: Phát huy vai trò doanh nghiệp tư nhân trong công tác bảo vệ nền tảng của Đảng, xem tại: https://daibieunhandan.vn/phat-huy-vai-tro-doanh-nghiep-tu-nhan-trong-cong-tac-bao-ve-nen-tang-cua-dang-post344905.html
(13) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011), xem tại: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
(14) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(18) ĐCSVN: Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, 2017, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
(19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83.
(20) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 2019, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
(27) Lê Duy Bình: Kinh tế tư nhân - động lực của nền kinh tế và tiến bộ xã hội, 2025, https://nhandan.vn.
(28) Trang Trần: 10 triệu người Việt Nam thoát nghèo trong giai đoạn 2010-2020, 2022, https://kinhtevadubao.vn.