Nhân vật - Sự kiện

Đóng góp của cụ Nguyễn Văn Tố trong phong trào truyền bá quốc ngữ

09/06/2024 16:01

(LLCT) - Cụ Nguyễn Văn Tố - một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, nhà văn hóa lớn với lòng yêu nước nồng nàn đã đến với cách mạng, trọn đời phấn đấu, hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Cụ là người có công lao to lớn trong phong trào cổ động và truyền bá quốc ngữ theo chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, góp phần xóa nạn mù chữ và xây dựng đời sống văn hóa mới trong nhân dân.

TS ĐINH NGỌC QUÝ
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Đóng góp của cụ Nguyễn Văn Tố trong phong trào truyền bá quốc ngữ

Cụ Nguyễn Văn Tố (ngoài cùng bên phải hàng dưới) chụp ảnh cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ Cách mạng lâm thời, năm 1945 _ Ảnh tư liệu

Trong lịch sử Việt Nam thập niên 1930, cụ Nguyễn Văn Tố được biết đến với những hoạt động văn hóa khơi dậy tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc. Trên cương vị Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, cụ có vai trò quan trọng đưa việc truyền bá quốc ngữ mau chóng trở thành một phong trào quần chúng có tổ chức, sâu rộng và mạnh mẽ, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, mang tới những tác động tích cực trong xã hội Việt Nam.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, hơn 90% dân số Việt Nam không biết chữ. Trên thực tế, thực dân Pháp có cho mở một số trường học nhưng số người đi học rất hạn chế và chỉ nhằm mục tiêu đào tạo những viên chức cam tâm phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Nội dung học tập mang nặng tính nhồi sọ, ngu dân và xuyên tạc, phản động nhằm nhồi nhét trong tâm trí người học về công lao “khai hóa văn minh” của “mẫu quốc” đối với xứ An Nam chứ không phải để nâng cao dân trí.

Tố cáo chính sách phản động của chính quyền thuộc địa Pháp về giáo dục, ngay từ những năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã reo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc ... Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi”(1).

Do tính chất phản động của nền giáo dục thực dân đã đặt ra yêu cầu đối với cách mạng Việt Nam là cùng với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, phải xóa bỏ nền giáo dục thực dân, xây dựng một nền giáo dục mới tiến bộ, dành cho tất cả mọi người dân và cao hơn cả là phục vụ lợi ích của cách mạng và toàn thể dân tộc. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 đã chủ trương: “Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”(2). Theo đó, giáo dục không còn là đặc quyền của những người giàu nữa mà trở thành quyền lợi chung của tất cả người dân, trong đó trước hết là công nhân và nông dân.

Trong Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 6-1932, Đảng chủ trương: “Hết thảy con cái các nhà lao động được đi học cho tới 16 tuổi, bằng tiếng mẹ đẻ và không phải chịu học phí. Trẻ con được lĩnh không sách, quần áo và bút giấy…”(3). Đến năm 1933, chủ trương này tiếp tục được nhắc lại cụ thể trong Chương trình hành động của Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương.

Thực hiện chủ trương của Đảng, các lớp học phổ biến quốc ngữ bắt đầu được mở, đến những năm 1936-1939, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, các quyền tự do được nới lỏng, việc mở lớp và học quốc ngữ có điều kiện phát triển hơn. Năm 1936, khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra hoạt động công khai, nhiều sách báo bằng chữ quốc ngữ, truyền đơn, khẩu hiệu bằng tiếng Việt xuất hiện. Năm 1937, báo chí tiến bộ tiếng Việt và tiếng Pháp đã nhiều lần nêu lên sự cấp thiết phải thành lập một hội chống mù chữ(4) để phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng đến được với đông đảo quần chúng nhân dân,phục vụ hiệu quả sự nghiệp giáo dục, mở mang dân trí và đấu tranh cách mạng.

Nắm bắt yêu cầu của thực tiễn và tranh thủ tình hình chính trị thuận lợi ở Đông Dương từ khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp(5), đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt), Ủy viên Trung ương Đảng và đồng chí Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh), Xứ ủy viên Bắc Kỳ, phụ trách công tác báo chí công khai của Đảng ở Bắc Kỳ đã họp bàn và đề ra chủ trương thành lập một tổ chức chống nạn mù chữ. Để hoạt động được thuận lợi, tổ chức này sẽ do một số nhân sĩ và trí thức tiến bộ đứng ra xin thành lập(6). Cụ Nguyễn Văn Tố - người có uy tín lớn trong giới học giả, nổi tiếng về tài văn chương, ngôn ngữ và tinh thần yêu nước được chọn là người sẽ đứng ra đảm trách đứng đầu tổ chức đó.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 25-5-1938, Hội Truyền bá quốc ngữ ở Bắc Kỳ do cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng(7), chính thức làm lễ ra mắt nhân dân tại Hà Nội và được hàng nghìn người đến tham dự, hưởng ứng. Với uy tín rất cao của cụ Nguyễn Văn Tố trên cương vị Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, nhiều nhà trí thức có tên tuổi như: Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xiển, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Văn Giáp, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Xuân Hãn... đã nhận lời và tích cực tham gia hoạt động của Hội.Theo điều lệ Hội, việc tổ chức các lớp học, các buổi hội thảo không chỉ ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh. Thành viên của Hội gồm tất cả các cá nhân mọi quốc tịch, không phân biệt giới tính, không hạn chế số lượng.

Sau ngày Hội Truyền bá quốc ngữ ra đời, trên cương vị Hội trưởng, cụ Nguyễn Văn Tố tổ chức các hoạt động của Hội nhằm xóa nạn mù chữ trong nhân dân, chủ yếu là những người dân nghèo, những người lao động, những người đang phục dịch trong các gia đình giàu có. Đồng thời, cụ cũng chỉ đạo mở rộng tổ chức và phạm vi ảnh hưởng của Hội không chỉ ở địa bàn Bắc Kỳ mà còn mở rộng ra khắp cả nước. Trong hoàn cảnh thực dân Pháp khủng bố gắt gao phong trào yêu nước, gây khó khăn cho người học, người dạy, Hội Truyền bá quốc ngữ vẫn duy trì hoạt động, đóng góp vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ trong nhân dân, để quần chúng tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc.

Chương trình của Hội là mở các lớp học cho tất cả mọi người không biết chữ, không thu học phí, in sách giáo khoa phát cho người học. Kinh phí hoạt động của Hội do nhân dân ủng hộ. Hệ thống tổ chức của Hội được xây dựng từ Ban vận động Trung ương đặt trụ sở tại Hà Nội cho tới các chi nhánh ở địa phương; các bậc học gồm bậc sơ đẳng dạy vỡ lòng cho học viên đọc, viết chữ quốc ngữ và làm được hai phép tính cộng, trừ. Bậc cao đẳng luyện cho học viên đọc, viết thông chữ quốc ngữ, dạy thêm ít điều thường thức và bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia.

Ngoài việc dạy trên lớp, Hội Truyền bá quốc ngữ còn tổ chức các cuộc diễn thuyết nhằm giảng giải, phổ biến những điều thường thức cho đồng bào để nâng cao dân trí, xây dựng nền tảng vững chắc cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam; chủ trương biên soạn và xuất bản loại sách thường thức phổ thông về sử ký, địa lý, vệ sinh, khoa học… phổ biến rộng rãi trong nhân dân,nhằm bổ khuyết việc học trên lớp;lập thư viện bình dân với hai loại: Thư viện mở ở những nơi nhất định vừa cho mượn sách, vừa tổ chức việc đọc sách tại chỗ và thư viện luân chuyển, lưu động.

Hội trưởng Nguyễn Văn Tố cũng chỉ đạo biên soạn và phát hành sách giáo khoa “Vần quốc ngữ”. Sách gồm hai phần: Phần một hướng dẫn cho giáo viên phương pháp dạy vỡ lòng chữ quốc ngữ theo cách mới do Hội sáng tạo ra; phần hai dạy tập vần vỡ lòng dành cho học viên. Phương pháp mới của Hội được áp dụng là “phương pháp đọc lên thành tiếng” thay cho phương pháp cũ là “đánh vần từng chữ”. Sách giáo khoa “Vần quốc ngữ” dễ học, dễ nhớ hơn. Do đó, số lượng lớp học, học viên không ngừng được mở rộng về số lượng cũng như chất lượng dạy và học. Để việc truyền bá quốc ngữ được mau chóng, Hội yêu cầu những người đã được Hội dạy cho biết chữ phải cố gắng dạy lại cho những người không biết chữ xung quanh mình.

Truyền thống hiếu học của dân tộc và sự tận tình của các hội viên Hội Truyền bá quốc ngữ đã mang lại hiệu quả hết sức có ý nghĩa. Nhật ký của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từng tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ ghi lại: Trong các lớp học, đã chen chúc bao nhiêu người “dốt” mà vì nghèo đói không thể học được: trẻ con, người nhớn, đàn bà, kẻ áo cộc, người áo the, người áo trắng, cu li, vú em, con đòi, thợ thuyền tấp nập vào học. Tôi cảm động khi thấy những người nhớn ấy chưa biết chữ quốc ngữ và cái việc dìu dắt họ, mở mắt cho họ, khai thông óc cho họ, ôi! nó mới đẹp đẽ làm sao! Các hội viên trong Ban dạy học đi lại tấp nập, vẻ sốt sắng hiện trên nét mặt. Trong các buồng học lờ mờ ánh sáng, “học trò” ngồi, chờ và mong mỏi”.

Với hoạt động tích cực của Hội và cá nhân Hội trưởng Nguyễn Văn Tố, Hội Truyền bá quốc ngữ đã có những đóng góp quan trọng đối với việc phát triển văn hóa nói riêng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc nói chung. Phong trào truyền bá quốc ngữ được đánh giá là một công cuộc phát triển văn hóa quan trọng như Nghị quyết Xứ ủy Bắc Kỳ tháng 8-1938 đã nhận định và báo Tin tức của Đảng đánh giá, đây là “trường học văn hóa rất rộng lớn cũng là trường học yêu dân, yêu nước”(8).

Trước sức ảnh hưởng lớn của Hội Truyền bá quốc ngữ, thực dân Pháp thông tri mật cho các công sứ Pháp ở các tỉnh phải điều tra kỹ lưỡng rồi mới cho lập chi hội truyền bá quốc ngữ. Mặc dù cho phép Hội Truyền bá quốc ngữ hoạt động nhưng trên thực tế, chính quyền thực dân tìm mọi cách hạn chế sự phát triển của Hội. Hội ra đời và hoạt động trong cao trào đòi tự do, dân chủ ở Đông Dương, nên mỗi khi Hà Nội có mit tinh, tuần hành và truyền đơn rải trên các đường phố, mật thám Pháp nghi có sự dính líu đến Hội. Lúc bấy giờ, Hội trưởng Nguyễn Văn Tố nhiều lần bị triệu tập đến Sở Mật thám để truy vấn. Tuy nhiên, trước những đối đáp hòa nhã, sắc sảo và có lý có tình của cụ, người Pháp không vin được cớ gì để ngăn cản công việc của Hội. Không chỉ vậy, cụ Nguyễn Văn Tố còn thẳng thắn vạch trần âm mưu xuyên tạc lịch sử để tuyên truyền lừa bịp của thực dân Pháp trong buổi lễ khánh thành tượng đài Alexandre de Rhode(9) ở sau đền Bà Kiệu, gần hồ Hoàn Kiếm.

Mặt khác, khi chính quyền thực dân ngỏ ý muốn trợ cấp, với âm mưu lôi kéo Hội, cụ đã khôn khéo vô hiệu hóa âm mưu đó.Để duy trì và bảo vệ được tổ chức Hội, cụ Nguyễn Văn Tố còn ra sức uốn nắn kịp thời những hành vi quá khích của một số thanh niên rất hăng hái thành ra quá tả, gây sự chú ý với chính quyền thực dân, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của phong trào truyền bá quốc ngữ. Luật sư Vũ Đình Hòe nhận xét: “cụ khéo ngoại giao với các cụ lớn Tây, Ta, sách lược khi cương khi nhu, có lùi có tiến, nhờ vậy, Hội nhiều phen vượt thác ghềnh suôn sẻ”(10).

Trên cương vị Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, cụ Nguyễn Văn Tố đã tổ chức tuyên truyền, vận động người dân tham gia học tập, đồng thời kêu gọi sự ủng hộ giúp đỡ của các bậc nhân sĩ, trí thức cả về vật chất và sự tham gia công sức. Cụ Nguyễn Văn Tố đã tổ chức các thành viên trong Hội tích cực xây dựng các cơ sở của Hội ở khắp các địa phương. Từ Bắc Kỳ, hoạt động và ảnh hưởng của Hội Truyền bá quốc ngữ lan rộng ra cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, dù chính quyền thuộc địa cố tìm cách ngăn trở. Ngày 5-1-1939, Hội Truyền bá quốc ngữ ở Trung Kỳ được thành lập. Ngày 18-8-1944, Hội Truyền bá quốc ngữ ở Nam Kỳ chính thức ra đời.

Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, tinh thần ham học, cầu tiến của quần chúng và sự nỗ lực của các hội viên gồm trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước, hoạt động truyền bá quốc ngữ mau chóng trở thành một phong trào quần chúng có tổ chức, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và đạt được những kết quả tốt đẹp.

Một sự kiện quan trọng tạo nên bước ngoặt của Hội Truyền bá quốc ngữ là việc tổ chức Hội nghị sách giáo khoa toàn quốc tại Hà Nội vào 2 ngày (29 và 30-7-1944) nhằm “thắt chặt liên lạc thân ái giữa các anh em, đồng chí. Trao đổi những kinh nghiệm và sáng kiến về tổ chức và về sư phạm”(11). Tại Hội nghị này, với tư cách Hội trưởng, cụ Nguyễn Văn Tố đọc báo cáo về hoạt động của Hội trong 6 năm (1938-1944), nêu cao sự ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân với công cuộc xóa nạn mù chữ, phổ biến chữ quốc ngữ và biểu dương công lao của tất cả các giáo viên, hội viên tham gia với tinh thần nhiệt huyết đối với công cuộc nâng cao dân trí.

Theo báo cáo của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố, Hội Truyền bá quốc ngữ đã mở được 17 chi nhánh ở Bắc Kỳ với 820 lớp học, 2.903 giáo viên dạy cho 41.118 người biết đọc, biết viết; ở Trung Kỳ đã thành lập được 11 chi nhánh. Riêng ở Hà Nội, trong 2 năm 1938-1939 đã mở được 4 khóa học với hơn 4.000 học viên, phần lớn là anh chị em công nhân và nhân dân lao động ở ngoại thành.

Trong bối cảnh Việt Nam chưa có một nền giáo dục phổ thông đại chúng, sự hoạt động tích cực của Hội Truyền bá quốc ngữ đã phổ biến được nhiều kiến thức đến với người dân. Trong 7 năm (1938-1945), Hội đã giúp hơn 70 nghìn người thoát khỏi nạn mù chữ, trong đó có 10 nghìn người chẳng những đạt trình độ đọc thông viết thạo mà còn biết làm 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia và nắm được một số kiến thức phổ thông về sử ký, địa lý, vệ sinh(12)...

Hội Truyền bá quốc ngữ còn đóng góp rất lớn cho Đảng và cách mạng bằng việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh trong toàn thể quần chúng nhân dân. Nhiều hội viên truyền bá quốc ngữ đã tham gia khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau đó, phong trào truyền bá quốc ngữ trở thành nòng cốt của cuộc vận động “Diệt giặc dốt” và “Phong trào bình dân học vụ” do Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Những thành tựu chung đó của Hội Truyền bá quốc ngữ có công lao to lớn của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố.

Cụ Nguyễn Văn Tố - Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ đã có đóng góp quan trọng đối với phong trào truyền bá quốc ngữ trong toàn dân và sự nghiệp chống nạn mù chữ, khơi dậy lòng nhiệt huyết của quần chúng, nhất là lòng yêu nước, tự hào dân tộc về truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.

Hội trưởng Nguyễn Văn Tố là người xác định rõ mục đích, tôn chỉ, tính chất và chương trình của Hội; mở rộng phạm vi ảnh hưởng và tổ chức của Hội phát triển khắp cả nước; người đi đầu trong phong trào xóa nạn mù chữ và mở rộng tri thức phổ thông; duy trì, kiên định và bảo vệ sự phát triển của Hội.

Dưới sự lãnh đạo của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố, Hội Truyền bá quốc ngữ đã đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng: Giúp nhân dân, nhất là quần chúng lao khổ nâng cao hiểu biết về các mặt, từ đó ý thức về vai trò, trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; Hội Truyền bá quốc ngữ còn là môi trường thiết thực giúp các hội viên, giáo viên, phần lớn là những thanh niên trí thức rèn luyện, trưởng thành, tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù toàn bộ tổ chức bộ máy, tài sản vật chất và tinh thần của Hội Truyền bá quốc ngữ chuyển sang ngành Bình dân học vụ, nhưng dấu ấn của Hội và đặc biệt là sự nghiệp của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố với truyền bá quốc ngữ, nâng cao dân trí và tuyên truyền giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta còn mãi in sâu, đọng lại trong trái tim, khối óc của người Việt Nam. Cụ Nguyễn Văn Tố xứng đáng được tôn vinh là nhà văn hóa lớn của dân tộc, có công lao to lớn đối với sự nghiệp truyền bá quốc ngữ ở Việt Nam.

_________________

Ngày nhận bài: 1- 6-2024; Ngày bình duyệt: 6 -6- 2024; Ngày duyệt đăng: 8 -6-2024.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 399-400.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 2.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 26.

(4), (8) Chương trình sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và cách mạng Việt Nam: Nguyễn Văn Tố tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.80, 89.

(5) Tháng 5-1935, Mặt trận Nhân dân Pháp gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp tiến giành thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Pháp.

(6) Hồi ký của đồng chí Hoàng Quốc Việt ghi: “Một ngày cuối năm 1937, tôi đến thăm anh Trường - Chinh bị đau phổi nằm ở nhà thương Bạch Mai. Anh em gặp nhau là bàn về phong trào. Chúng tôi nhận thấy sách báo của ta tuy ra nhiều, nhưng số độc giả là công nhân, nông dân và những tầng lớp lao động khác còn chiếm một tỷ lệ rất ít, vì đại đa số anh chị em này đều không biết đọc, biết viết. Để giải quyết vấn đề khó khăn ấy, hai anh em nảy ra ý kiến cử anh Phan Thanh đến mời cụ Nguyễn Văn Tố đứng ra xin lập Hội truyền bá quốc ngữ” (Nhiều tác giả: Nhân dân ta rất anh hùng, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 180).

(7) Tổ chức và điều hành hoạt động của Hội Truyền bá quốc ngữ ở Bắc Kỳ do Ban trị sự phụ trách. Danh sách Ban Trị sự lâm thời gồm các ông: Nguyễn Văn Tố (Chánh hội trưởng), Bùi Kỷ (Phó hội trưởng), Phan Thanh (Thư ký), Quản Xuân Nam (Phó thư ký), Đặng Thai Mai (Thủ quỹ), Võ Nguyên Giáp (Phó thủ quỹ), Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn, Lê Thước (Cố vấn), Trần Văn Giáp (Giám sát). Giúp việc Ban Trị sự là các ban chuyên môn do Ban trị sự cử ra như Ban Cổ động do ông Phan Thanh làm Trưởng ban, Ban Khánh tiết do ông Quản Xuân Nam làm Trưởng ban, Ban Dạy học do ông Võ Nguyên Giáp làm Trưởng ban, Ban Tu thư (soạn tài liệu học tập) do ông Hoàng Xuân Hãn làm Trưởng ban. (Vương Kiêm Toàn - Vũ Lân: Hội Truyền bá quốc ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1980, tr. 44-45.)

(9) Alexandre de Rhode(1591-1660) - một nhà truyền giáoDòng Tên, một nhà ngôn ngữ học người Avignon (nay thuộc miền Nam nước Pháp). Ông đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam và việc hình thành chữ quốc ngữ.

(10) Vũ Đình Hòe: “Nguyễn Văn Tố - Vị Hội trưởng của dân trí”, Tạp chíXưa & Nay, số 333, tháng 6-2009.

(11) Báo Đông Pháp, số ra ngày 29-7-1944

(12) Vương Kiêm Toàn - Vũ Lân: Hội Truyền bá quốc ngữ, Sđd, tr. 111.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Đóng góp của cụ Nguyễn Văn Tố trong phong trào truyền bá quốc ngữ
    POWERED BY