Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Giá trị của Chiến thắng 30-4 và 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

31/07/2025 15:03

(LLCT) - Nhân kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong khi cả dân tộc Việt Nam và bạn bè quốc tế hân hoan chào đón sự kiện lịch sử trọng đại này thì các thế lực thù địch, phản động lại tung ra những luận điệu nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài viết làm rõ những giá trị đích thực của Chiến thắng 30-4 và 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

PGS, TS NGUYỄN VĂN SỰ
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2025): Vang mãi bản hùng ca bất diệt
Sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, người dân Việt Nam đã được hưởng những quyền lợi lớn lao mà không phải quốc gia, dân tộc nào cũng có_ Ảnh: qdnd.vn

1. Mở đầu

Với thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Thế nhưng thời gian qua, trên các trang mạng xã hội lại lan truyền những thông tin xấu, độc khi cho rằng: “Chiến thắng 30-4-1975 đem lại quyền lực và sự giàu có cho những kẻ độc tài. Nhưng đem lại áp bức, bất công cho cả dân tộc trong 50 năm qua”. Vì thế, làm rõ những giá trị đích thực mà người dân Việt Nam được hưởng sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đập tan các luận điệu sai trái, thù địch là hết sức cần thiết.

2. Nội dung

Những giá trị của Chiến thắng 30-4 và 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được tổng kết ở những trọng điểm sau:

Nhân dân hai miền Nam - Bắc được sum họp một nhà, không còn cảnh chia ly, cách biệt

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ tháng 7-1954, và cùng các nước tham dự Hội nghị ký Tuyên bố cuối cùng, trong đó có những nội dung rất quan trọng: ...Các bên tham gia Hội nghị thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; việc hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ 20-7-1955 và tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7-1956; quyết định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam(1).

Tuy nhiên, thực tế đã không diễn ra như vậy. Trong khi phía Việt Nam nghiêm chỉnh chấp hành nội dung của Hiệp định, tổ chức đưa hàng vạn cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra miền Bắc, thì đế quốc Mỹ ngang nhiên vi phạm các điều khoản của Hiệp định, xúc tiến kế hoạch xâm nhập vào miền Nam Việt Nam để thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân kiểu mới, thúc giục ngụy quân, ngụy quyền ra sức phá hoại Hiệp định bằng mọi biện pháp và thủ đoạn tàn ác. Hậu quả là, hiệp thương, tổng tuyển cử năm 1956 đã không diễn ra như kế hoạch; người dân hai miền Nam - Bắc Việt Nam phải sống trong cảnh chia ly trong suốt 21 năm (1954-1975).

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30-4-1975), tính chất phân chia hai miền Nam - Bắc không còn. Người dân Việt Nam được sum họp, đoàn tụ, trở thành người tự do của một nước Việt Nam độc lập. Một bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhất là những người đã từng sống dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trước đây được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được tạo điều kiện thuận lợi để trở về chứng kiến những đổi thay của quê hương, đất nước, được đóng góp một phần sức lực và trí tuệ của mình, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Nhân dân được sống trong đất nước thanh bình, không có chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo

Trước năm 1975, khi đất nước còn chiến tranh, cả dân tộc Việt Nam đã phải gồng mình lên để chống lại âm mưu, thủ đoạn hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Bắt đầu từ chính sách “tố cộng, diệt cộng”, “giết nhầm hơn bỏ sót”; đến “dồn dân lập ấp chiến lược”… Chỉ tính trong 04 năm (1955-1958): Nam Bộ có khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên của ta bị địch giết; gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt, bị tù đày, gần 20 vạn người bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn khoảng 5 nghìn so với 60 nghìn đảng viên trước đó. Tỉnh Bến Tre còn 162 đảng viên, tỉnh Tiền Giang chỉ còn 92, tỉnh Gia Định, Biên Hòa mỗi nơi chỉ còn 01 chi bộ. Cả miền Nam tổn thất 9 phần 10 cán bộ, đảng viên. Ở Khu V (lúc này gồm cả Trị - Thiên và cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên xã bị bắt, bị giết, có tỉnh chỉ còn 2-3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng không còn cơ sở đảng. Riêng Trị - Thiên chỉ còn 160/23.400 đảng viên so với trước đó(2).

Ở miền Bắc, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, từ năm 1965-1973, nhân dân miền Bắc phải gánh chịu hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân do đế quốc Mỹ gây ra. Với ý định “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”, đế quốc Mỹ đã sử dụng máy bay, tàu chiến cùng các loại vũ khí hiện đại như bom napalm, bom phá hủy và bom bi để đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và nhiều vùng nông thôn nhằm hủy diệt sức mạnh quân sự và tinh thần kháng chiến của nhân dân miền Bắc.

Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong khi nhân dân Việt Nam đang rất cần một môi trường hòa bình để dựng xây đất nước, hàn gắn những vết thương nghiêm trọng do hai cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài gây ra thì các thế lực thù địch, phản cách mạng lại gây chiến ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc (năm 1975-1979). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân cả nước đã đoàn kết, đánh bại kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Từ năm 1986 đến nay, với đường lối đổi mới đúng, bước đi và cách làm phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo dựng được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Điều cần thấy là cũng trong giai đoạn này, trong khi nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới thường xuyên phải đối mặt với chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, tranh giành lãnh thổ... thì ở Việt Nam, người dân được sống trong môi trường hòa bình, không có chiến tranh, không có xung đột sắc tộc, tôn giáo, như nhận xét của một kiều bào: “Trong bối cảnh xung đột, bạo loạn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nền tảng giúp các đối tác nước ngoài yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam”(3). Hình ảnh cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama ăn bún chả, uống bia trong một quán ăn bình dân trên đường phố Hà Nội; Thủ tướng Canada Justin Trudeau; Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol… và rất nhiều nguyên thủ quốc gia đến thăm và dạo chơi trên đường phố Hà Nội thanh bình là những minh chứng cho sự ổn định chính trị - xã hội của Việt Nam mà không phải quốc gia nào cũng có.

Nhân dân được tự do sản xuất, kinh doanh, được khuyến khích làm giàu hợp pháp

Trước năm 1975, người dân miền Nam rên xiết dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và tay sai. Từ khi đất nước được giải phóng, nhất là từ năm 1986 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán chủ trương: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(4). Đồng thời, “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”(5).

Cụ thể hóa tư tưởng của Đảng, Điều 7 Luật Doanh nghiệp quy định các quyền tự do của doanh nghiệp là: tự do kinh doanh ngành, nghề mà luật pháp không cấm; tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; tự do tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng… Tuy là nước nông nghiệp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, người nông dân được tự do sản xuất, kinh doanh, làm giàu trên diện tích mình nhận khoán. Đó là một chủ trương nhân văn, thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, được nhân dân đón nhận và chính điều đó đã tạo động lực thúc đẩy người nông dân phát huy hết tiềm năng thế mạnh, đức tính cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo... đưa nông nghiệp Việt Nam tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử. Từ một nước thường xuyên thiếu đói, Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới. Các sản phẩm nông nghiệp do người nông dân Việt Nam tạo ra đã có mặt ở hầu hết các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, EU... Nếu ai còn hoài nghi về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, về môi trường sản xuất kinh doanh thì có thể tìm hiểu những tấm gương người nông dân Việt Nam vươn lên trở thành tỷ phú, thậm chí xuất hiện các câu lạc bộ những người nông dân tỷ phú như ở Lâm Đồng.

Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao

Trước năm 1975, khi đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân vô cùng khó khăn, cực khổ. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp lạc hậu, sản xuất thủ công, năng suất thấp. Hạ tầng kỹ thuật yếu kém, giao thông đi lại khó khăn, nhiều nơi không có điện, nước sạch. Người dân phải đối mặt với nạn đói, thiếu thốn lương thực, thực phẩm, thuốc men. Chiến tranh khiến đời sống tinh thần trở lên u ám. Nỗi lo âu, mất mát, chia ly khiến nhiều người dân không thể sống một cuộc sống bình yên. Các hoạt động văn hóa, giáo dục bị gián đoạn, nhiều trẻ em không được đến trường.

Sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đã có bước phát triển vượt bậc. Từ một nước nghèo, kém phát triển, Việt Nam thoát khỏi nhóm có thu nhập thấp từ năm 2008(6). Quy mô GDP năm 2025 dự kiến 500 tỷ USD, gấp 1,45 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 trên thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; GDP bình quân năm 2025 đạt khoảng 4.900 USD, gấp 25 lần sau ba thập kỷ; thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đạt khoảng 4.650 USD, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp(7). Phát biểu tại lễ công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2023 vào tháng 6-2023, GS.TS. Andreas Stoffers - Giám đốc Quốc gia Viện FNF Việt Nam đã khẳng định: Kể từ thời điểm đổi mới năm 1986, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng có. Bên cạnh Ba Lan, Việt Nam là quốc gia đã phát triển nhanh nhất trong những năm gần đây và xu hướng này vẫn chưa kết thúc(8).

Trong giai đoạn 2020-2023, khi cả thế giới phải gồng mình chống lại đại dịch Covid-19 thì Việt Nam lại có những thành công đáng khâm phục. Với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt nhiều giải pháp khống chế, đẩy lùi dịch bệnh, trong đó có những giải pháp “chưa từng có”, thực hiện kịp thời theo hướng: Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Chưa bao giờ hai tiếng “Việt Nam” được truyền thông quốc tế nhắc nhiều đến thế. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã có bài phân tích thành công của Việt Nam trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch Covid-19, cho rằng Việt Nam có thể mang lại bài học cho các nước đang phát triển. Mở đầu bài viết, IMF dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Có bão giông mới sáng danh tùng bách” để ca ngợi sức mạnh và sự ổn định của Việt Nam trong ứng phó với “cơn bão” Covid-19. Sau đại dịch, nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi mạnh mẽ nhờ tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ khoảng 105 nghìn tỷ đồng cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt lao động gặp khó khăn do bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; cấp hơn 23,3 nghìn tấn gạo hỗ trợ đột xuất cho trên 471 nghìn hộ với 1,55 triệu nhân khẩu(9)

Cơ sở hạ tầng được Nhà nước đầu tư, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước cũng như nhu cầu đi lại của người dân. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư nâng cấp, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng, miền trong cả nước và giao thương quốc tế. Tính đến năm 2024, “Cả nước đã có gần 26.000km đường quốc lộ, trong đó có khoảng 2.000km đường cao tốc; có 22 sân bay đang hoạt động bay dân sự, trong đó có 11 sân bay quốc tế; có 7 tuyến đường sắt, với 2.703km đường tuyến chính, đi qua 34 tỉnh, thành phố; có 34 cảng biển các loại, trong đó, có hai cảng cấp đặc biệt, với trên 100km cầu cảng, bắt đầu hoạt động từ năm 1997”(10).

Internet phát triển nhanh, mạng cáp quang đã kết nối đến 100% xã, hạ tầng băng thông di động đã phủ sóng hầu hết thôn, bản. Đến giữa năm 2024, tỷ lệ người dùng internet ước đạt 78% dân số; lượng thuê bao internet di động đạt trung bình 91,9 thuê bao/100 dân. Internet Việt Nam chuyển đổi từ hạ tầng thông tin liên lạc thành hạ tầng số của nền kinh tế, mở ra cơ hội tiếp cận, trở thành công cụ phát triển kinh tế - xã hội cho mọi người dân, mọi ngành, nghề, mọi doanh nghiệp. Đến nay, có khoảng 80 triệu người Việt Nam sử dụng internet(11).

Các chính sách giảm nghèo đa chiều được triển khai rộng khắp và mang lại hiệu quả thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều mới) năm 2023, đến năm 2024 giảm còn 1,93%. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm trung bình cao của thế giới(12). Báo cáo Phát triển con người năm 2023-2024 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 13-3-2024 đã ghi nhận sự thăng hạng vượt bậc của Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam đã tăng 8 bậc từ vị trí 115 lên vị trí 107, tiếp tục ở trong số các quốc gia đang phát triển có chỉ số HDI cao(13). Đó là kết quả của những chính sách đúng đắn, hiệu quả và nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước trong thúc đẩy phục hồi kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của người dân Việt Nam.

Đối tượng người yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội được quan tâm, “Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 3,4 triệu đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó 1,417 triệu người cao tuổi; 1,612 triệu người khuyết tật; 21 nghìn trẻ em đang hưởng chế độ đối với trẻ em mồ côi, mất nguồn nuôi dưỡng; 146 nghìn trẻ em hưởng chế độ đối với trẻ em dưới 3 tuổi; 84 nghìn người đang hưởng chế độ người đơn thân nuôi con dưới 16 tuổi; 76 nghìn đối tượng khác và 349 nghìn hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng hằng tháng”(14). Thực hiện đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội giai đoạn 2021-2030. Đến năm 2025, cơ bản xóa toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước.

Việt Nam đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi vào năm 2017. Đến năm 2023, số sinh viên đại học, cao đẳng ở Việt Nam tăng gần 20 lần trong gần 40 năm, đạt 215 người/1 vạn dân. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng; nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được bảo tồn, phát huy.

Mạng lưới y tế cơ sở phát triển rộng khắp; năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế các tuyến được nâng lên. Diện bao phủ bảo hiểm y tế được mở rộng. Năm 2018, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 88,6% dân số thì đến đầu năm 2025 con số này là 94,2%. Đặc biệt, nhóm hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 3,8 triệu người năm 2009 lên 24,9 triệu người trong tháng 4-2025 (tăng 8 lần). Quyền lợi người tham gia được bảo đảm và ngày càng mở rộng(15). Tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 74,6 tuổi năm 2024(16).

3. Kết luận

Sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, người dân Việt Nam đã được hưởng những quyền lợi lớn lao mà không phải quốc gia, dân tộc nào cũng có. Từ một đất nước bị chiến tranh, phân ly, chia cắt, sau Chiến thắng 30-4-1975, người dân hai miền Nam Bắc được sống trong cảnh sum vầy, đoàn tụ, không còn cảnh chia ly, cách biệt; được sống trong môi trường hòa bình, ổn định, không có chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo; được tự do sản xuất, kinh doanh, làm giàu hợp pháp và đặc biệt là đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao... Đó là thực tế những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam trong suốt 50 năm qua. Mọi luận điệu xuyên tạc giá trị của Chiến thắng 30-4 và 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cần phải lên án, bác bỏ.

_________________

Ngày nhận: 21-5-2025; Ngày bình duyệt: 15-7-2025; Ngày duyệt đăng: 25-7-2025.

Email tác giả: nguyenvansu968@gmail.com

(1) Xem: Vũ Dương Huân: Ý nghĩa và những bài học lịch sử của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, https://tapchicongsan.org.vn, ngày 31-7-2024.

(2) Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.310.

(3) Phương Linh - Phương Thảo: Sự ổn định chính trị mang lại sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, https://qdnd.vn, ngày 24-10-2022.

(4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73, 79.

(6) Xem: Nguyễn Xuân Thắng: Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045, https://lyluanchinhtri.vn, ngày 20-6-2024.

(7), (9), (12), (14) ĐCSVN: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.112, 113, 13, 118.

(8) Xem: Thảo Miên: Ba kịch bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023, https://thoibaotaichinhvietnam.vn, ngày 22-6-2023.

(10), (11) Tạ Ngọc Tấn: Cơ sở vững chắc cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, https://tapchicongsan.vn, ngày 23-3-2025.

(13) Báo nhân dân điện tử: Việt Nam thăng hạng vượt bậc về Chỉ số phát triển con người, https://nhandan.vn, ngày 15-3-2024.

(15) Xem: Thắng Trần: Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, đảm bảo tối đa quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, https://baohiemxahoi.gov.vn, ngày 20-5-2025.

(16) Theo số liệu của Bộ Y tế, tuổi thọ người Việt không ngừng gia tăng, năm 2023 tăng lên 74,5 - cao hơn gần 1 tuổi so với trung bình 4 năm trước đó; năm 2024 tiếp tục tăng lên 74,6 tuổi.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Giá trị của Chiến thắng 30-4 và 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
    POWERED BY